Hữu Ngọc
- Lady Borton
Tuồng và
chèo là hai hình thức sân khấu truyền thống cuả Việt Nam. Chèo là một nghệ thuật
dân gian còn tuồng là nghệ thuật cung đình. Chữ "Tuồng" cò hai nghĩa:
kịch hát (ca kịch cổ truyền) và một vở kịch nói chung. Tuồng còn được gọi là
hát bội hay hát bộ, mà "hát bội" là thuật ngữ cổ hơn. Theo học giả
Trương Vĩnh Ký (1837-1898), "hát" có nghĩa là "kịch hát" và
"bội" có nghĩa là "nhiều" để mô tả một thể loại sân khấu có
nhiều vai diễn. Hát bộ (hát = kịch hát + bộ = điệu bộ) là một thể loại sân khấu
dựa trên điệu bộ.
Nhiều người
đã viết về tuồng có nguồn gốc ở Việt Nam hay được du nhập từ Trung Hoa. Trên thực
tế, câu hỏi này không quan trọng. Nói chung,qua nhiều thế kỷ, người Việt Nam đã
để lại dấu ấn của riêng mình lên các yếu tố từ các nền văn hóa ngoại bang mà họ
đồng hóa. Họ có tuồng được "Việt Nam hóa".
Những
nguyên lý cơ sở đầu tiên của sân khấu truyền thống Việt Nam có lẽ đã xuất hiện
từ thế kỷ thứ 10, sau khi người Việt Nam giành lại đất nước sau cả nghìn năm Bắc
thuộc. Những vở kịch này là các trò nhại, những trò bắt chước rất đơn giản, sau
trở thành trò hề, hay trò hài. Thế kỷ 11 chứng kiến sự khởi đầu của sân khấu được
thể chế hóa với các vai hề tại triều
đình của vua Lê Long Đĩnh (trị vì từ 1005 đến 1009). Các diễn viên chuyên nghiệp
bắt đầu xuất hiện dưới triều Lý (1010-1225).
Kịch hát
Trung Quốc du nhập vào Việt Nam năm 1285, khi người Viêt Nam bắt được Lý Nguyên
Cát, một binh sĩ trong đội quân xâm lược Nguyên Mông. Từng là diễn viên nên Lý
Nguyên Cát đã giới thiệu về kịch hát Trung Quốc.
Sự phát
triển của tuồng bị chậm lại vào thế kỷ 15 vì các vua nhà Lê (1428-1789) phân biệt
đối xử với các diễn viên, coi họ là "xướng ca vô loài". Tuy vậy, tuồng
phát triển mạnh dười thời các chúa Nguyễn ở miền nam Việt Nam trong giai đoạn đất
nước phân tranh (từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18). Chẳng hạn, Đào Duy Từ, một nhà
cai trị và chiến lược gia xuất sắc ở thế kỷ 17, là một người say mê sân khấu.
Tuy nhiên, thời kỳ hoàng kim của tuồng diễn ra tại Huế dưới triều Nguyễn ở thế
kỷ 19 (1802-1945). Các vua Minh Mạng và Tự Đức, vốn là những người sành sỏi và
nhiệt tiình với sân khấu, đã cho xây dựng các sân khấu hoàng gia và duy trì các
đội kịch cung đình.
TUỒNG GIỐNG
VÀ KHÁC CÁC THỂ LOẠI KỊCH VIỆT NAM KHÁC NHƯ THẾ NÀO?
Tuồng
nguyên là một dạng kịch Trung Hoa được du nhập trong thế kỷ 13. Về sau, các nghệ
sĩ biểu diễn ở các địa phương đưa thêm vào những biến thể dựa trên những điệu
múa và ca khúc dân gian địa phương. Tuồng là một nghệ thuật sân khấu cổ truyền
với các kịch bản bác học và văn chương. Lời thoại, ca khúc và các điệu múa đều tuân thủ theo những quy tắc chặt chẽ và
có một hình thức cách điệu rất cao.
Chèo là một
nghệ thuật sân khấu dựa trên những bài dân ca, các điệu múa dân gian và các điệu
múa tôn giáo phổ biến ở châu thổ sông Hồng. Chèo có từ thế kỷ 11 và phát triễn
mạnh trong các thế kỷ 15 16. Các vở chèo cổ mô tả số phận nghiệt ngã của người
phụ nữ và châm biếm xã hội phong kiến. Các diễn viên thường biểu diễn chèo
trong các hội làng. Họ trải một mảnh chiếu trước sân đình và treo một tấm vải
làm phông ở một bên mép chiếu. Dân làng tụ tập quanh ba mép chiếu còn lại để
thưởng thức buổi diễn.
Hát bài
chòi ra đời vào năm 1930 tại Trung Bộ từ một trò chơi dân gian có cùng tên gọi.
Nó vay mượn các kỹ xảo diễn xuất của tuồng và chèo để tạo nên phong cách đối
thoại, múa và hát riêng của mình.
Kịch hát
Huế ra đời vào năm 1920. Mặc dù ban đầu dựa theo tuồng nhưng kịch hát Huế lại lấy
kịch bản từ các truyện dân gian địa phương.
Cải lương
bắt đầu sau thế chiến thứ nhất và phát triển từ những bài hát do các ban nhạc tài tử biểu diễn ở miền Tây Nam bộ. Những bài hát
này, nghe như những lời than vãn, là cốt lõi của cải lương.
Kịch nói
từ Châu Âu du nhập vào Việt Nam sau thế chiến I. Các vở kịch nói đầu tiên của
Việt Nam là "Chén thuốc độc" của Vũ Đình Long và "Kim tiền"
của Vi Huyền Đắc.
Nhạc kịch,
bắt chước nhạc kịch Châu Âu, đã bắt đầu có tại Việt Nam sau khi người Pháp bại
trận năm 1954. Vở nhạc kịch đầu tiên của Việt Nam là vở "Cô Sao" của
Đỗ Nhuận.
VIDEO minh họa Hát Bài Chòi ở Hội An
VIDEO minh họa Hát Bài Chòi ở Hội An
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét