Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2013

SINH HỌC CỦA LÒNG TỪ BI


Yongey Mingyur Rinpoche & Eric Swanson


Ở một chừng mực nào đó, cách hiểu về lòng từ bi của Phật giáo hơi khác với ý nghĩa thông thường của từ này. 
Đối với Phật tử, từ bi không chỉ có nghĩa là buồn thương cho người khác. Từ này theo tiếng Tây Tạng - nying-jay - có nghĩa là sự mở rộng tấm lòng hoàn toàn. Có lẽ cách dịch sát nghĩa nhất của nying-jay là "tình thương" - một kiểu tình thương không chấp thủ hoặc không chút mong đợi sự đền đáp nào. Từ bi, trong tiếng Tây Tạng, là một cảm giác kết nối tự nhiên với mọi chúng sinh. Những gì bạn cảm thấy thì tôi cũng cảm thấy, những gì tôi cảm thấy thì bạn cũng cảm thấy. Không có sự khác biệt nào giữa chúng ta.
Về mặt sinh học chúng ta đã được lập trình để đáp ứng với môi trường xung quanh một cách đơn giản để tránh những đe dọa cho sự sống còn của mình và nắm được những cơ hội giúp nân cao hạnh phúc cho bản thân. Chúng ta chỉ cần lật qua các trang sử là có thể thấy được rằng câu chuyện phát triển của loài người thường là một câu chuyện tàn bạo được viết bằng máu của kẻ yếu hơn.
Thế nhưng, có vẻ như sự lấp trình hóa từng hướng chúng ta tới chỗ bạo lực hay tàn ác này cũng đã làm cho chúng ta có những cảm xúc không chỉ ngăn chặn sự hung hãn mà còn thúc đẩy chúng ta theo cách hành động cao hơn động lực sinh tồn cá  nhân để có thể phục vụ cho người khác. Tôi rất kinh ngạc về một nhận xét của ông Jerome Kagan, giáo sư trường Harvard, trong bài thuyết trình của ông tại hội nghị của Viên Tâm Thức và Đời Sống năm 2003, khi ông cho biết rằng, cùng với khuynh hướng hung hãn của chúng ta, bản năng sinh tồn cũng tạo ra cho chúng ta một "khuynh hướng sinh học" mạnh mẽ hơn thiên về tử tế, từ bi, tình thương và sự trìu mến.
Tôi đã từng được nghe rất nhiều câu chuyện về một số người trong thế chiến thứ hai đã liều cả sinh mạng để cung cấp nơi ẩn náu cho những người Do Thái tại Châu Âu đang bị Đức Quốc Xã săn lùng, và những vị anh hùng vô danh đã hy sinh hạnh phúc để cứu giúp cho các nạn nhân chiến tranh, nạn đói và bạo lực ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ngoài ra, phần lớn các môn sinh phương Tây của tôi là những bậc cha mẹ đả hy sinh một phần lớn thời gian và công sức để đưa đón con mình trong các cuộc thi đấu thể thao, âm nhạc cùng các hoạt động khác, trong khi vẫn kiên trì dành dụm tiền bạc để lo cho việc học của con cái mình.
Trên bình diện cá nhân, những hy sinh như thế dường như cho thấy là phải có những yếu tố sinh học cao hơn cả những nỗi sợ và niềm vui của bản thân. Chỉ riêng sự kiện chúng ta có thể xây dựng nên những xã hội và những nền văn minhi1t ra là biết thừa nhận cái nhu cầu bảo vệ và chăm sóc người nghèo khổ, yếu ớt và bất lực cũng đã đủ hậu thuẫn cho kết luận của giáo sư Kagan rằng "ý thức đạo đức là một đặc điểm sinh học của loài người chúng ta".
Nhận xét của ông cộng hưởng gần như hoàn toàn với tinh yếu của giáo lý nhà Phật. 
Càng nhìn thấy rõ hơn thực chất của vạn pháp, chúng ta càng sốt sắng hơn để mở rộng tấm lòng đối với người khác. Khi chúng ta nhận thấy người khác đau khổ và bất hạnh vì không nhận ra thực tánh của họ, chúng ta tự nhiên cảm thấy mong muốn cho họ cũng có được cái cảm giác an lạc và trong sáng mà mình đang bắt đầu có được.

Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2013

Khoa cử ở Nam Kỳ dưới triều Nguyễn


Trần viết Ngạc 
Lều chõng di thi Hương

Kỳ thi Hương đầu tiên dưới triều Nguyễn vào năm 1807 chỉ dành cho sĩ tử ở xứ Đàng Ngoài trước đây, lấy đậu 61 cử nhân. Ưu ái và vỗ về sĩ phu và nhân dân Bắc Hà chăng?
Khoa sau, 1813, Gia Long mới cho thiết lập một trường thi ở Kinh đô Huế và một trường ở Gia Định thành (trường Gia Định). Trường Gia Định được duy trì từ năm 1813 cho đến năm 1858, tổ chức được 19 kỳ thi Hương. Sau Hiệp ước Nhâm Tuất (1862), trường An Giang (1864) thay thế cho trường Gia Định.
Trả nợ bút nghiên 
Tất cả 20 kỳ thi Hương ở Nam Kỳ (1813-1864) tuyển chọn được 274 cử nhân. Kỳ lấy đỗ cao nhất là 20 cử nhân vào các năm 1847, 1848 và thấp nhất là 8 cử nhân ở kỳ thi Hương đầu tiên (1813).
Có một sự kiện lạ lùng ít ai lưu tâm tìm hiểu và biết đến là 274 cử nhân thi đậu tại các trường thi Gia Định và An Giang, duy nhất chỉ có Lương Khê Phan Thanh Giản là đạt được học vị Tiến sĩ! Nếu kể thêm các cử nhân gốc Nam Kỳ thi ở các trường khác thì trước sau Nam Kỳ, suốt thời kỳ khoa cử dưới triều Nguyễn chỉ có 3 vị Tiến sĩ. Ngoài Phan Lương Khê đậu năm 1826, ba mươi năm sau mới có vị thứ hai là Phan Hiển Đạo (1856). Phan Hiển Đạo thi cử nhân ở trường Thừa Thiên vào năm Đinh Mùi (1847), đậu thứ ba và thi Hội, đậu Tiến sĩ khoa Bính Thìn (1856). Vị tiến sĩ thứ ba là Nguyễn Chánh, người thôn Phú Mĩ Tây, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định. Nguyễn Chánh đậu giải nguyên tại trường Thừa Thiên khoa Mậu Ngọ (1858) và đậu Tiến sĩ (thứ 4) khoa Nhâm Tuất (1862), làm quan đến chức Thượng thư bộ Hình và Tổng đốc Thanh Hóa.
Nguyễn Thông

Có đôi điều đáng suy nghĩ:
Thứ nhất, tại sao các sĩ phu Nam Kỳ ít người đạt đến bậc cao nhất của Khoa cử dưới triều Nguyễn. Chỉ tính cùng thời gian từ năm 1822 đến năm 1865 thì toàn quốc có 280 tiến sĩ trong khi Nam Kỳ cùng thời gian trên chỉ có 3 tiến sĩ và trong số 274 cử nhân thi Hương tại Nam Kỳ chỉ có một tiến sĩ duy nhất đó là Phan Thanh Giản! Phan Thanh Giản là người khai khoa và trong suốt 30 năm (1826-1856), Phan là người trí thức tiêu biểu nhất của Nam Kỳ trong khoa cử và cũng là vị đường quan cao nhất ở Nam Kỳ trong triều đình Huế.
Phải chăng vua Tự Đức không có lựa chọn nào khác khi cử vị tiến sĩ đầu tiên và cũng là duy nhất trong số 274 sĩ tử Nam Kỳ đậu cử nhân, làm Khâm sai đại thần để ký kết với thực dân Pháp một hòa ước liên quan đến số phận ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (1862) ? Và cũng chính ông, chứ không ai khác được cử đi Paris và Madrid để chuộc lại Ba tỉnh miền Đông. Hòa ước Aubaret ký kết năm 1864 bị Pháp phủ nhận và Phan Thanh Giản lại được cử vào chức Kinh lược sứ tại Ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ.
Phan Thanh Giản
Phan Lương Khê có thể có chọn lựa nào khác là chén thuốc đắng khi Ba tỉnh Miền Tây mất vào tay Pháp năm 1867!
Thứ hai, chúng ta cần ghi nhận là sĩ tử Nam Kỳ đáng cho chúng ta tự hào khi đã cùng nhân dân xả thân bảo vệ đất nước. Một số cử nhân đã đi vào lịch sử dân tộc như Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân, Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa, cáa cử nhân Trương Gia Hội, Phan Văn Trị, Nguyễn Thông, Nguyễn Thành Ý, Âu Dương Lân, Trương Minh Giảng, Trương Văn Uyển, , Trần Xuân Hòa, Đỗ Trình Thoại, Phan Văn Đạt, Lưu Tấn Thiện, Đinh Văn Huy ...
So với những vị khoa bảng ở các vùng khác, các sĩ phu xuất thân từ khoa cử ở Nam Kỳ, trong công cuộc đấu tranh giữ nước, xứng đáng là niềm tự hào của nhân dân Nam Kỳ và nhân dân cả nước.
Bảng thống kê sau đây cho chúng ta biết thêm về khoa cử ở Nam Kỳ dưới triều Nguyễn :





STT
Khoa
Số cử nhân
Thủ khoa
Ghi chú thêm
1
1813
8
Nguyễn 
Bảo Bang
Khoa Hương đầu tiên ở 
Nam Kỳ
2
1819
12
Trương 
Hảo Hiệp
Trương Minh Giảng
3
1821
16
Nguyễn Văn Kỳ
(cùng khoa)
4
1825
15
Trương Phước Cang
Trương Văn Uyển
5
1828
16
Mai 
Hữu Điển
Phan Thanh Giản
6
1831
10
Đinh 
Văn Huy
Hy sinh ở Campuchia, 
được lập đền thờ. Con 
là Đinh Văn Khoa, 
hy sinh ở Hà Tĩnh, 
cũng được lập đền thờ
7
1835
9
Bùi 
Hữu Nghĩa
Cùng khoa
8
1837
11
Nguyễn Văn Triêm
Trần Xuân Hòa
9
1840
11
Nguyễn Hoài Vĩnh
Trần Thiện Chánh
10
1841
15
HồĐăng Phong
Đỗ Trình Thoại
11
1842
16
Duy Quang
Phạm Hữu Chánh
(Án sát An Giang)
12
1843
15
PhạmVăn Trung
Lưu Tấn Thiện
13
1846
18
Nguyễn Xuân Ý
(Bốchánh An Giang)
Phan Văn Đạt
(hy sinh, được lập đền thờ)
14
1847
20
Nguyễn Công Hài
(Án sát Hà Tiên)
Nguyễn Thông đậu thứ hai
15
1848
20
Nguyễn Đức Hoành
Phan Văn Trị
16
1849
17
Võ Thế Tri
Trương Gia Hội
17
1852
13
Nguyễn Hữu Huân
Nguyễn Nùng Hương
18
1855
13
Nguyễn Tánh Thiện
Nguyễn Thành Ý
19
1858
9
LêĐình Sâm
Âu Dương Lân
20
1864
10
VõDoãn Xuân
Thi ở trường thi An Giang
Tổng cộng 20 kỳ thi Hương, lấy đỗ 274 cử nhân.

Chiều Copenhagen


Thy Anh


Tôi gập bà cụ này đang ngồi yên lặng dưới tàng cây, trong ánh nắng chiều Copenhagen, bà đang nghĩ gì?  Chỉ đang thư giãn? hay đang nhớ về ai? phiá sau bà là một người đàn ông trung niên đi cùng con nhỏ, cha con nói chuyện lao xao, như hình ảnh của  3 thế hệ, của vòng đời mỗi con người . . .

Kỷ niệm một chuyến đi Đan Mạch, ảnh chụp với máy Canon 350D

VẪN CÒN NHỮNG NGƯỜI TỬ TẾ


Yongey Mingyur Rinpoche & Eric Swanson


Thử tưởng tượng bạn sống cả đời mình trong một căn phòng nhỏ với một ô cửa khóa duy nhất rất bẩn thỉu và không để lọt qua chút ánh sáng nào. Có lẽ bận sẽ nghĩ thế giới là một nơi tối tăm u ám đầy những sinh vật hình thù kỳ lạ, in những bóng đen đáng sợ trên ô cửa lem luốc khi chúng đi ngang cạnh phòng bạn. Nhưng nếu một ngày kia, bạn dội một ít nước lên mặt kính, hoặc có một ít nước rỉ trên mặt kính sau cơn mưa lớn và bạn dùng giẻ lau cho khô. Thế là một ít chất bẩn trên kính được chùi sạch. Đột nhiên một mảng ánh sáng nhỏ xuyên qua tấm kính. Tò mò, bạn chà mạnh thêm chút nữa và lại thêm một mảng bẩn bong ra, thêm nhiều ánh sáng tràn vào. Có thể thế giới không phải là nơi tối tăm u ám. Mà tối tăm là cái ô cửa.
Bạn đến bồn rửa lấy thêm ít nước (và có thể thêm ít giẻ) để chà đi chà lại cho đến khi toàn bộ bề mặt ô cửa không còn chút cáu bẩn nào. Ánh sáng thoải mái tràn vào và , có lẽ lần đầu tiên, bạn nhận thức được rằng tất cả những bóng đen dị thường đã làm bạn sợ mỗi lần đi qua chỉ là những con người - giống bạn! Và từ sâu thẳm nhận thức bạn khởi sinh một thúc bách bản năng là phải tạo được một sự kết nối với xã hội - phải đi ra phố và cùng sống với họ!
Thật ra, bạn đã chẳng làm thay đổi cái gì cả. Thế giới, ánh sáng và mọi người vẫn luôn hiện diện. Bạn chỉ không thấy được họ do tầm nhìn của bạn đã bị che khuất. Nhưng giờ đây, bạn đã nhìn thấy tất cả, thật khác lạ làm sao!
Đây là điều mà trong Phật giáo gọi là "bình minh của lòng từ bi", là sự thức tỉnh của một khả năng bẩm sinh để thấy được sự đồng nhất và hiểu được cuộc sống của người khác.

Diệu Quán Sát Trí: Từ Một Góc Nhìn


Huỳnh Ngọc Chiến


“Tôn giáo trong tương lai phải là một tôn giáo mang tầm vóc vũ trụ. Tôn giáo đó phải vượt lên trên một Thượng Đế được xây dựng theo hình ảnh con người, và tránh được giáo điều cùng thần học. Vì bao hàm được cả yếu tố tự nhiên và tinh thần, nó phải đặt nền tảng trên một cảm thức tôn giáo được phát khởi từ kinh nghiệm về vạn hữu như là một Thể Nhất Như đầy ý nghĩa, trong thế giới tự nhiên lẫn tinh thần. Đạo Phật đáp ứng được điều này. Nếu có một tôn giáo nào có thể đương đầu được với những yêu cầu của khoa học hiện đại thì đó sẽ là đạo Phật”.(The religion of the future will be a cosmic religion. It would transcend a personal God and avoid dogmas and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a religious sense, arising from the experience of all things, natural and spiritual, as a meaningful unity. Buddhism answers this description. If there is any religion that would cope with modern scientific needs it would be Buddhism).
Đây là câu nói nổi tiếng được trích dẫn rất nhiều và được cho là của Einstein, từ những ghi chép chưa được in thành sách, nêu một nhận định thâm trầm về đạo Phật. Do chưa tra cứu được chính xác chúng nằm ở trong tác phẩm nào của Einstein, nên chúng tôi chỉ có thể dựa vào những kết quả sưu tầm trên mạng. Xuất xứ của câu nói này chưa rõ ràng, vì nội dung của nó có thay đổi chút đỉnh theo từng Website. Đây có thể chỉ là câu nói của nhà bác học Einstein trong một buổi mạn đàm hoặc trong lúc trà dư tửu hậu, hoặc trong một lá thư gởi cho bè bạn. Song đó có phải là câu nói của vị cha đẻ bom nguyên tử hay không, không quan trọng bằng nội dung của nó là gì. Dù chưa khẳng định được một cách chắc chắn tính xác thực của nó, song phải là bậc thông tuệ có một kiến giải sâu xa về bản chất của tôn giáo mới có câu nói thâm trầm dường đó.
Ngày nay, dưới ánh sáng của những phát minh khoa học, khi mà trụ cột giáo lý của các tôn giáo dựa trên sự mặc khải và thần quyền ít nhiều đều bị lung lay, thì phần tinh hoa của đạo Phật lại càng có thêm điều kiện để hiển lộ, phần tinh hoa mà trước kia ta chỉ hiểu phần lớn bằng khái niệm, qua cách diễn tả hoành tráng của kinh điển đại thừa Ấn Độ hoặc qua cách diễn tả quá bình dị bằng trực giác của các Thiền sư Trung Quốc về Thực tướng. Vật lý học hiện đại cho ta nhiều ánh sáng để hiểu thêm về cái thế giới “trùng trùng duyên khởi” kỳ ảo của Hoa Nghiêm. Bất kỳ mọi tác động nào diễn ra trong vũ trụ đều tạo nên vô vàn các ba động vi tế lan truyền trong cái thế giới vật lý, mà trong đó tất cả vạn hữu được nối kết và đan xen nhau một cách vi diệu bất khả tư nghì. Nhà khoa học thiên tài Stephen Hawking đã diễn tả lại một tư tưởng tương tự như “Đồng thời cụ túc tương ưng môn” của Hoa Nghiêm, theo tinh thần vật lý hiện đại, bằng một hình tượng vô cùng thơ mộng và sinh động: “Một con bướm vỗ cánh ở Tokyo có thể gây ra mưa tại Công viên trung tâm New York”!1. Điều này không chỉ đúng với thế giới vật lý mà có lẽ còn đúng cả trong thế giới tư tưởng. Cuốn “Đạo vật lý” (The Tao of Physics) của nhà vật lý học người Mỹ gốc Áo Fritjof Capra đã bắt thêm một nhịp cầu tuyệt diệu nữa giữa vật lý học hiện đại với huyền học phương Đông, nghĩa là giữa đỉnh cao của khoa học với những nền triết giáo vắng bóng “một Thượng Đế được xây dựng theo hình ảnh con người” (personal God).
Có nhiều câu nói rất sâu sắc không ghi xuất xứ, được gán cho Einstein, mà nội dung của chúng lại gần gũi với tinh thần đạo Phật một cách lạ thường. Song điều khiến chúng ta thấy gần gũi với nhà bác học Einstein không phải là cái đầu óc uyên bác tột đỉnh với những phát hiện phi thường vượt quá tầm hiểu biết của đa số chúng ta, mà là cái tâm hồn nghệ sĩ nơi ông. Chính cái tâm hồn nghệ sĩ đó đã giúp ông nhìn ra toàn bộ cấu trúc của vũ trụ trong một viễn tượng thơ của sự hòa điệu vĩ đại, dù ông đã phải loại bỏ hằng số vũ trụ (cosmological constant) ra khỏi mô hình vũ trụ tĩnh (steady-state universe) của mình để nó tương thích với mô hình vũ trụ giãn nở trong thực tế, sau phát hiện của nhà thiên văn Hubble vào năm 1922, và gọi đó là sai lầm lớn nhất trong đời (greatest blunder). Nhiều nhà nghiên cứu đã căn cứ vào việc đó để kết luận rằng: ông đã sai trong lĩnh vực sở trường là khoa học, thì điều đó có nghĩa rằng những nhận định về của ông về đạo Phật cũng sai nốt! Nghĩa là đạo Phật không thể đáp ứng được các yêu cầu của khoa học hiện đại, và cuối cùng con người cũng phải cần tới Thượng Đế. Chúng ta hãy gác vấn đề đó lại cho những ai ham tranh luận, mà chỉ nên tìm hiểu xem những phát hiện của ông có gì gần gũi với đạo Phật, và có đem lại gì cho sự an lạc tâm linh cho chúng ta hay không. Điều đó mới thực sự quan trọng hơn những cuộc tranh luận rối rắm mà kết quả vẫn luôn luôn để ngỏ.
Einstein, với cái đầu uyên bác tuyệt đỉnh, có thể được xem là người đại diện của khoa học phương Tây hiện đại; còn nhà thơ Tagore có thể được xem là người đại diện cho truyền thống thơ ca và triết giáo phương Đông. Vậy mà cả hai lại gặp nhau, qua một lần đối thoại hy hữu, ở một điểm chung khi nhìn về thực tướng của vũ trụ như một sự hòa điệu vĩnh hằng (constant harmony)2 giữa thế giới vi mô và thế giới vĩ mô, tức hình ảnh vũ trụ như là “một Thể Nhất Như đầy ý nghĩa”(meaningful unity). Suốt đời mình, Einstein vẫn không ngừng nỗ lực xây dựng Lý thuyết Trường thống nhất (Unified Field Theory) hay là Lý thuyết về Vạn hữu (Theory of Everything: TOE) để hy vọng giải thích được tất cả các hiện tượng trong vũ trụ bằng những định luật chung, từ thế giới cực vi của nguyên tử cho đến không gian mênh mông vô tận của các thiên hà. Einstein luôn tin vào sự hòa điệu vĩnh hằng của vũ trụ và tin rằng Lý thuyết Trường thống nhất sẽ là chìa khóa mở ra các cánh cửa huyền vi của Tạo hóa. Nhà vật lý lý thuyết Michio Katu của đại học City tại New York cho rằng Lý thuyết Trường thống nhất là nỗ lực đi tìm “một phương trình chỉ dài một inch mà cho phép chúng ta đọc được tâm ý của Thượng Đế” (an equation an inch long that would allow us to read the mind of God)! Xét cho cùng thì cái “the mind of God” của Michio Katu cũng chính là cái mà nhà thơ Lý Hạ của Trung Quốc gọi là “Nguyên hóa tâm” 元 化 心 (tấm lòng của Tạo hóa) trong một bàiTương tiến tửu:
Chung ẩm Bắc hải
Kỳ cứ Nam san
Ca dâm dâm
Quản tích tích
Hoành ba hảo tống điêu đề câm (kim)
Nhân chi đắc ý thả như thử
Hà dụng cưỡng tri nguyên hóa tâm?
*
Rượu uống chốn Bắc hải
Cờ đánh ở Nam san
Ca đê mê
Sáo réo rắt
Liếc mắt nhìn đưa chén rượu vàng
Đời nguời đắc ý cứ như thế
Ích gì gượng hiểu lòng Hóa công?

Tâm hồn nghệ sĩ phương Đông muốn tìm thấy “Nguyên hóa tâm” trong thơ và rượu, còn những đầu óc thông thái phương Tây lại luôn chứng minh “Nguyên hóa tâm” bằng những phương trình! Dường như con đường khoa học phương Tây khi mở rộng ra thế giới ngoại tại đến khi tới chỗ sơn cùng thủy tận thì nó lại tiếp giáp với cõi bờ huyền học phương Đông. Thực tướng của thế giới chỉ hiển lộ đối với những tâm hồn nghệ sĩ thực sự, những tâm hồn không còn bị che mờ bởi danh lợi hoặc những thứ phù phiếm của trần gian, mà để rung cảm theo sự hòa điệu vĩ đại của vũ trụ. Tác giả của những kháng thư đại thừa thâm áo, khi dùng trí tưởng tượng phong phú dị thường để diễn tả cảnh giới chứng ngộ hoặc thực tướng của vũ trụ, trước hết họ là những nhà thơ lớn hoặc là những tâm hồn có những rung động cực kỳ vi tế trước những cảnh tượng kỳ diệu mà họ đã trực ngộ. Bởi vậy, những câu nói sau đây của Einstein chắc hẳn có một ý nghĩa thật sâu xa đối với những ai quan tâm đến Phật học:
- Nếu có một thứ gì đó trong tôi có thể gọi là tôn giáo thì đó chỉ là sự thán phục vô bờ bến trước cấu trúc của thế giới, trong chừng mực nó được nền khoa học của chúng ta phát lộ mở phơi. (If something is in me which can be called religious then it is the unbounded admiration for the structure of the world so far as our science can reveal it – The Human Side).
- Tôi không cần phải cố gắng hình dung ra một Thượng Đế; đối với tôi chỉ cần chiêm ngưỡng một cách ngất ngây kiến trúc của thế giới là đủ, trong mức độ nó cho phép giác quan bất toàn chúng ta thưởng ngoạn (I don’t try to imagine a God; it suffices to stand in awe of the structure of the world, insofar as it allows our inadequate senses to appreciate it – Letter to S. Flesch, April 16, 1954; Einstein Archive 30-1154).
- Điều đẹp đẽ nhất mà chúng ta có thể kinh nghiệm được là sự huyền mật. Đó là suối nguồn của mọi nghệ thuật và khoa học chân chính. Người nào xa lạ với cảm xúc này, người nào không còn biết ngạc nhiên và ngất ngây trong niềm kinh ngạc thì xem như đã chết: đôi mắt anh ta đã bị khép kín mất rồi”. (The most beautiful thing we can experience is the mysterious. It is the source of all true art and science. He to whom this emotion is a stranger, who can no longer pause to wonder and stand rapt in awe, is as good as dead: his eyes are closed).
Cái mà nhà bác học Einstein gọi là “cảm nhận được sự huyền mật”, thì đó chính là cái mà Phật giáo gọi là “Diệu quán sát trí” (trí quán sát huyền diệu). Theo Duy thức học, thức thứ sáu tức Ý thức, khi đạt đến quả vô lậu, sẽ chuyển thành “Diệu quán sát trí”: đó là trí nhìn ra những điều kỳ diệu và huyền mật trên thế gian ngay trong những sự vật và sự việc bình dị đời thường, để biết “ngất ngây trong niềm kinh ngạc” (to stand rapt in awe). Nó không chỉ là suối nguồn của mọi khoa học và nghệ thuật, mà của cả tôn giáo nữa. Thế giới tưởng chừng tầm thường quanh ta vẫn luôn có vô số những điều huyền mật, để chờ một con mắt biết nhìn. Đó chính là chỗ mà Thiền tông gọi là “Bình thường tâm thị đạo”. Chỉ những ai đã mở được Diệu quán sát trí mới có đủ thẩm quyền để nói: “Bình thường tâm thị đạo”. Khi cái tâm đã tĩnh thì Diệu quán sát trí sẽ quán thấy toàn bộ bản lai diện mục của thế giới ngoại trần hiện lên trên tấm gương lòng. Đó là cái nhìn về “trăm năm trong cõi người ta” với “Tứ thời tâm kính tự như như” của Tố Như!
Ngữ lục Thiền tông chép lại các giai thoại các Thiền sư khi đang gánh nước hay chẻ củi, hoặc nhìn một bông hoa đào nở mà bỗng hoát nhiên đại ngộ. Hẳn ngay trong một sát-na, các ngài bỗng thấy vỡ òa trước mắt mình một thế giới tràn ngập ánh sáng của “Thập phương thế giới hiện toàn chân”, như thiền sư Trường Sa Cảnh Sầm đã từng thấy khi “Bách trượng can đầu tu tiến bộ”. Bởi vậy, các ngài mới có thể ứng khẩu làm ngay những bài kệ trong trạng thái hoan lạc tâm linh khôn tả. Tôi tin rằng Đức Phật cũng đã từng ngồi im lặng dưới gốc Bồ-đề để chiêm ngưỡng một cách ngất ngây kiến trúc của thập phương thế giới, đã từng “to stand in awe of the structure of the world” bằng trực giác phi thường, trước khi đạt đến sự Toàn Giác để nhập Hải Ấn đại định, hiện Đại Nhật Pháp thân (Vairocana: Tỳ-lô-xá na) mà thuyết pháp về thế giới Hoa Nghiêm.
Tư tưởng của triết gia Heidegger có vài điểm rất gần gũi với đạo Phật khi ông cho rằng: “Giữ tâm tịch nhiên bất động trước sự vật và mở rộng tâm hồn ra với những điều huyền mật, hai điều đó phụ thuộc lẫn nhau. Chúng đem lại cho chúng ta khả năng an trú trong thế giới theo một thể cách hoàn toàn khác biệt” (Die Gelassenheit zu den Dingen und die Offenheit für das Geheimnis gehören zusammen. Sie gewähren uns die Möglichkeit, uns auf eine ganz andere Weise in der Welt aufzuhalten). “Giữ tâm tịch nhiên bất động trước sự vật” (die Gelassenheit zu den Dingen hay l’égalité d’âme devant les choses) tức là tinh thần “Nhậm vận” của Thiền tông trong giai đoạn thứ bảy của “Thập mục ngưu đồ”, còn “Mở rộng tâm hồn ra với những điều huyền mật” (die Offenheit für das Geheimnis hayl’ouverture au mystère) chính là Diệu quán sát trí của Phật môn.
Thi hào Nguyễn Du biểu hiện Diệu quán sát trí theo một cách khác đầy thi vị và nghệ thuật. Chúng ta thường trích các câu thơ chữ Hán của Nguyễn Du để minh họa ảnh hưởng của Phật giáo trong thơ ông. Nhưng phần ảnh hưởng thâm sâu của Phật giáo lại nằm trong một đôi câu thơ phơ phất của Truyện Kiều. Nguyễn Du hẳn đã quán sát được thế gian hằng như mộng, nhất thiết pháp đều như huyễn, cho nên ngay sau cảnh tượng long lanh huyền ảo của ngoại giới:

Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng
Ông đã chỉ ra cảnh thê lương của kiếp người:
Bước vào chốn cũ lầu thư
Tro than một đống, nắng mưa bốn tường

Đó là Diệu quán sát trí qua cách diễn đạt bằng nghệ thuật của một thiên tài. Cái mà Mộng Liên đường chủ nhân bảo Nguyễn Du là nhà thơ có“đôi mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời” chính là Diệu quán sát trí của một Nghệ Sĩ – Bồ-tát đã thấy được “Mãn cảnh giai không hà hữu tướng? Thử tâm thường định bất ly thiền”.
Nhà thơ thiên tài Walt Whitman cũng đạt đến Diệu quán sát trí khi viết về những điều xảy ra quanh mình và gọi đó là “điều kỳ diệu” (Miracles). Dù là lang thang trên đường phố Manhattan, đi dạo dọc theo bờ biển, hoặc đứng dưới tàng cây, ngắm nhìn người ta qua lại, ngồi vào bàn ăn với mẹ, nói chuyện với bạn bè, nhìn những đàn ong bay lượn trong một buổi chiều hay nhìn đàn gia súc đang gặm cỏ ngoài đồng, nhìn những đứa trẻ chơi đùa hoặc nhìn thấy đám tang… ông đều thấy đó là những phép lạ diệu kỳ, trong bài thơ Miracles.
Đối với tôi, mỗi giờ của ngày và đêm đều là phép lạ
Từng phân khối không gian đều là phép lạ
……
Tất cả những điều đó, đối với tôi, đều là những phép lạ tuyệt diệu làm ta ngất ngây không sao nói được nên lời.
Đối với tôi biển khơi là phép mầu vô tận
Những đàn cá bơi - những tảng đá - sóng vỗ nhấp nhô - những con tàu với bao người trên đó
Có phép màu nào kỳ diệu hơn thế nữa chăng?
(To me, every hour of the light and dark is a miracle,
Every cubic inch of space is a miracle,
…..
All these to me are unspeakably perfect miracles.
To me the sea is a continual miracle;
The fishes that swim – the rocks – the motion of the waves – the ships, with men in them,
What stranger miracles are there?)

Đó chính là tinh thần Diệu quán sát trí của đạo Phật trong tâm hồn của một Bồ tát-Thi sĩ phương Tây. Trong tâm đã có sở đắc thì ngôn ngữ tự nhiên trở nên du hí phiêu bồng, khi đạt được Diệu quán sát trí thì thế giới sẽ trở nên toàn bích trong sự hòa điệu bất khả tư nghì của cảnh giới Hoa Nghiêm. Lúc đó, nói theo ngôn ngữ các thiền sư, thì núi Tu Di có thể được nhét trong một hạt cải, thập phương thế giới có thể hiển lộ trên đầu một sợi chân lông. Giống như một người đã giác ngộ thì nói năng động tĩnh đều phát huy diệu dụng, đi đứng nằm ngồi đều biểu lộ huyền cơ. Lúc đó câu kinh Duy-ma-cật: “Tùy kỳ tâm tịnh tức Phật độ tịnh” sẽ vọng lên những hòa thanh tương ứng với câu thơ của Whitman:
Tôi đoan chắc rằng trần gian này sẽ toàn bích đối với những ai có tâm hồn toàn bích
Và nó chỉ đổ nát vỡ vụn đối với những ai có tâm hồn đổ nát vỡ vụn.
(I swear the earth shall surely be complete to him or her who shall be complete,
The earth remains jagged and broken only to him or her who remains jagged and broken.)
Mà giữ được tâm hồn toàn bích để cảm nhận sự hòa điệu của vũ trụ là khai mở được Diệu quán sát trí để quán sát vạn hữu trong “một Thể Nhất Như đầy ý nghĩa” (meaningful unity) của Einstein bằng tinh thần Như Thị của Phật giáo.

Chú thích:
1. Stephen Hawking, Vũ trụ trong hạt dẻ, Nguyễn Tiến Dũng và Vũ Hồng Nam dịch, NXB Trẻ, 2005, tr.126.
2. Xin xem A Tagore Reader, edited by Amiya Chakravarty, Appendix II, pp. 222-225.

Thứ Sáu, 29 tháng 3, 2013

Câu chuyện của niềm tin


Giáp Văn Dương


1. Như bao bạn trẻ khác, tôi rời quê khi học hết phổ thông. Rồi cũng như bao người khác, tôi ra nước ngoài học tiếp khi xong đại học.

Gần mười hai năm học tập và làm việc ở nước ngoài, tôi có bạn bè mới, thầy cô mới, đồng nghiệp mới. Trong công việc không có định kiến, không có phân biệt. Tất cả diễn ra trong một sự trung thực và cởi mở hồn nhiên. Hồn nhiên đến mức ngạc nhiên. 
Tôi chìm đắm trong bầu không khí dân chủ, bình đẳng và tinh thần tự do học thuật. Tôi thấy mình được tôn trọng, và ý thức được mình có quyền được người khác tôn trọng. 
Tôi phải làm đủ thứ giấy tờ nhưng không bao giờ thấy những con dấu đỏ. Chỉ cần một chữ ký cá nhân là đủ, một cuộc điện thoại, một lá email là xong. Không ai hạch sách, không ai đòi kiểm tra, không ai đòi công chứng bản gốc.
Tôi lên tàu điện: không có người soát vé. Họ tôn trọng chúng tôi, và tin chúng tôi. Thỉnh thoảng họ có đi kiểm tra định kỳ thì cũng rất lịch sự, không gây cho mình cảm giác khó chịu.
Tôi ra siêu thị: không ai bắt tôi phải gửi đồ trước khi vào mua hàng. Không ai kiểm tra chúng tôi khi ra. Họ tôn trọng chúng tôi, và tin chúng tôi.
Tôi và một người bạn đi mua bảo hiểm xe. Điều khoản cho biết, nếu mất xe thì sẽ được đền xe mới. Bạn tôi hỏi: nếu chúng tôi bán xe rồi báo mất thì sao? Nhân viên bảo hiểm ngạc nhiên mất một lúc lâu mới nghĩ ra được câu trả lời: tôi tin các anh không làm thế.
Lần đầu tiên tôi cảm nhận được sự tin tưởng mang tính hệ thống. Một sự tin tưởng cá nhân mạnh mẽ lan tỏa trong toàn xã hội. Chữ Tín được xác lập mà không cần sự có mặt của các loại công chứng bản gốc, chứng thực, xác nhận...  
Tôi vỡ ra: À, ra thế. Họ giàu mạnh vì họ tin ở con người.

2. Mười hai năm sau tôi trở về. Nhiều cái như xưa. Nhiều cái hơn xưa. Nhưng cũng nhiều cái tệ hơn xưa. 
Tôi làm thủ tục nhận đồ mình gửi cho mình. Tên tôi đây. Địa chỉ tôi đây. Hộ chiếu của tôi đây. Vậy sao mà rắc rối đến vậy? Sao phải xác nhận? Sao phải chứng minh? Sao phải công chứng bản gốc? 
Tôi có làm gì đâu, chỉ là nhận đồ mình gửi cho mình thôi mà sao phức tạp như vậy. Lẽ ra tôi chỉ chờ ở nhà, đúng hẹn công ty vận chuyển sẽ mang đồ đến. Tôi chỉ cần ký xác nhận là xong. 
Tôi được giải thích ở Việt Nam mọi thứ cần phải đúng quy trình chứ không đơn giản như vậy. 
Tôi ngẫm ra: Càng nhiều dấu đỏ, càng ít niềm tin.

3. Tôi đưa gia đình đi siêu thị Big C Long Biên. Niềm vui khi thấy một siêu thị bề thế, nhộn nhịp vừa mới nhen lên thì gặp ngay một chuyện ngỡ ngàng: Tất cả những ai muốn vào siêu thị đều phải gửi đồ bên ngoài. Con gái tôi có một túi khoác nhỏ để đựng mấy thứ lặt vặt cũng phải niêm phong rồi mới được mang theo. 
Vì sao vậy? Chúng tôi hỏi thì chỉ nhận được câu trả lời: Đây là quy định!
Quy định gì? Quy định không được tin nhau.
Câu chuyện có lẽ sẽ chỉ là một phiền toái buồn, nếu không có chuyện sau khi thanh toán, tất cả khách hàng lại bị kiểm tra một lần nữa, và hóa đơn phải được đóng dấu đỏ “đã thanh toán” thì mới được nhân viên an ninh cho ra ngoài.
Chúng tôi tự hỏi: chuyện quái quỉ gì đang xảy ra vậy? Quầy thanh toán có hai nhân viên kiểm tra và tính tiền. Từ quầy thanh toán ra đến cửa ra này chỉ chừng 2 mét, lại không có hàng hóa gì bày bán trên đoạn đường 2 mét đó. Vậy cớ sao phải kiểm tra lại? Cớ sao phải đóng dấu vào hóa đơn thì mới được ra?
Vợ tôi phản ứng dữ dội: Nếu kiểm tra mà không tìm thấy sai sót nào thì các anh có xin lỗi chúng tôi không? Nhưng chúng tôi chỉ nhận được một câu trả lời lạnh lùng: Đây là quy định.
Tôi nhìn những người xếp hàng chờ kiểm tra và đóng dấu hóa đơn. Tất cả đều kiên nhẫn và ngoan ngoãn. Họ có thể làm gì trên đoạn đường dài 2 mét đó để phải chịu cảnh khám xét?
Tôi lặng lẽ quan sát. Rất nhiều người lớn tuổi. Lịch sử như phảng phất qua bộ quân phục cũ. Một vài nụ cười cầu hòa dù chủ nhân không làm gì sai. Một vài ánh mắt lấm lét không có lý do. Nhiều gương mặt cam chịu và chờ đợi cảnh được khám xét.
Tôi cố gắng tìm lý do để biện minh cho việc làm kỳ quái đó, nhưng không thể. 
Tôi rút ra kết luận: Nhiều người Việt không tin người Việt. Nhiều người Việt không hiểu rằng mình có quyền phải được người khác tôn trọng. 

4. Chúng tôi ra về, nhưng vẫn ám ảnh câu hỏi: Vì sao người Việt không tin nhau? Phải chăng chúng ta đã quen sống trong một sự cảnh giác thường trực đến độ thành phản xạ có điều kiện? 
Tôi bất giác nhớ đến mớ giấy tờ đỏ choét những con dấu công chứng sao y bản gốc. Tôi tự hỏi: Tôi và triệu người quanh tôi đã mất bao nhiêu thời gian cho những thứ này? 
Tôi thở dài: càng nhiều dấu đỏ, càng ít niềm tin. 
Tôi tự hỏi: Phải chăng đang có một cuộc “khủng hoảng niềm tin”? 
Và khi nào thì người ta không tin nhau? 
Rõ ràng là khi có sự dối trá. Người ta không tin nhau khi cần phòng tránh sự dối trá.
Vậy là đang có một sự dối trá phổ biến, đến mức một đoạn đường 2 mét và được kiểm soát chặt chẽ cũng trở nên đáng ngờ.
Và chúng ta đã mất biết bao nhiêu thời gian và nguồn lực để cảnh giác, phòng tránh, đương đầu với sự dối trá này?
Không ai thống kê định lượng, nhưng chắc hẳn là rất nhiều. Nhiều đến mức có thể làm cho đất nước ta kiệt quệ. Kiệt quệ vì luôn phải cảnh giác, đề phòng. 

5. Việt Nam đang rất cần một sự quy tụ nguồn lực để phát triển. Nhưng quy tụ làm sao khi cả xã hội sống trong tâm trạng cảnh giác thường trực, lúc nào cũng nơm nớp đề phòng? Quy tụ làm sao khi sự giả dối đã trờ thành một lối sống của xã hội? Quy tụ làm sao khi niềm tin giữa người với người đã trở nên cạn kiệt?
Việt Nam đang rất cần hội nhập, rất cần làm bạn với thế giới bên ngoài. Nhưng hội nhập làm sao khi luôn nhìn thế giới bên ngoài với con mắt thù địch nghi ngờ? Làm bạn làm sao khi không có lòng tin vào đối tác của mình?
Đất nước đã thống nhất nhưng lòng người chưa thống nhất. Di sản của mấy mươi năm chiến tranh quá đỗi nặng nề. Trong này kinh tế khó khăn. Ngoài kia Biển Đông nổi sóng. Một cuộc hòa giải, để sau đó thực sự có một sự hòa hợp Nam Bắc, trong ngoài là cần thiết hơn bao giờ hết. Muốn vậy cần xóa bỏ mọi nghi kỵ lẫn nhau giữa mọi tầng lớp xã hội.
***
Nhiều học giả đã gọi niềm tin là một thành phần quan trọng của vốn xã hội. Khi niềm tin cạn thì vốn xã hội cũng cạn theo. Mà cạn vốn thì làm sao phát triển?

Nguồn http://tiasang.com.vn  06/02/2013 

Đám tang của chính mình


Lm Phạm Quang Long phỏng theo Anthony de Mello

Không có gì giúp ta hiểu ý nghĩa cuộc sống cho bằng cái chết. Tưởng tượng rằng tôi đang dự đám tang của chính mình. Tôi nhìn thấy thi hài mình trong quan tài, giữa nến hoa và khói hương nghi ngút.

Cặp mắt tôi dừng lại một chút trên khuôn mặt những người xung quanh. Bấy giờ tôi mới hiểu cuộc sống của họ thật ngắn ngủi biết bao! Thật tiếc là họ chưa ý thức về điều đó. Lúc này, tâm trí họ đang tập trung vào tôi, chứ không phải vào cái chết của chính họ hay sự ngắn ngủi của đời người.
Một cảm giác thật lạ, vì hôm nay là buổi trình diễn cuối cùng của tôi trên mặt đất, lần cuối cùng tôi là trung tâm chú ý của mọi người.

Trên tòa giảng, vị linh mục đang nói về tôi. Tôi vui thích thấy mình được mọi người thương tiếc. Tôi để lại một khoảng trống đau thương trong tim của người thân và bạn bè. Nhưng cũng thành thực nhận rằng: trong đám đông kia cũng có một số người vui mừng vì sự ra đi của tôi.

Theo đám rước vào nghĩa trang, tôi chen giữa đám đông đứng lặng bên mộ huyệt. Chương cuối cùng của đời tôi khép lại khi những lời cầu nguyện sau cùng được cất lên, và cỗ quan tài từ từ chìm sâu vào lòng đất.

Tôi vẫn đứng bên mộ, hồi tưởng lại từng chương của đời mình, trong khi những người khác vội vã về nhà, về với những ước mơ và lo toan thường nhật.Một năm sau tôi trở về trái đất. Những khoảng trống đau thương kia đã được lấp đầy. Ký ức về tôi vẫn sống trong tim bạn bè, nhưng họ ít nghĩ về tôi hơn.

Giờ thì những người khác đã trở nên quan trọng hơn trong đời họ. Và phải thế thôi, vì cuộc sống vẫn phải tiếp tục. Tôi thăm lại công việc của mình: có ai đó đang tiếp tục làm. Giờ thì đã có người khác quyết định thay tôi. Tôi tìm lại những đồ dùng tôi yêu thích: chiếc đồng hồ, dàn vi tính, chiếc xe …, những thứ mà ngày nay không ai còn dùng nữa, vì đã quá lỗi thời.

30 năm sau tôi trở về lần nữa. Ngoài một vài bức ảnh mờ nhạt trong album và dòng chữ khắc trên mộ, chẳng có gì còn lại về tôi. Không còn cả những kí ức nơi bạn bè, vì chẳng còn ai sống nữa. Tôi cố tìm những gì còn sót lại. Ánh mắt tôi dừng lại nơi một chút bụi trong quan tài, lòng nghĩ về đời mình thuở trước: lo toan và niềm vui, tham vọng và mộng mơ, vinh quang và tủi nhục…

Những gì đã làm nên đời tôi, tất cả đã cuốn bay theo gió. Chỉ còn lại một chút bụi, như dấu chứng đã từng có tôi trên đời.


Thứ Năm, 28 tháng 3, 2013

VỀ CHUYỆN ĐẠO CHUYỆN ĐỜI . . .


HỎI
Vậy là vật chất có trước, ý thức có sau đúng không ?
Con người là một thực thể hữu cơ, nếu không có vật chất thì không thể tồn tại.
Cũng như con người phải có lục căn, lục dục thất tình. Nếu diệt hết lục căn thì đâu phải là con người nữa, đúng không ?
Phần trên có nói vấn đề Quên Tu hay Khó Tu là rất đúng, còn giả bộ tu thì sao ?
Bây giờ ở VN người ta " mượn đạo tạo đời" thiếu gì, góp của người nghèo giúp đỡ người giàu .... niềm tin bị lợi dụng !
Bây giờ không mấy ai tin tưởng việc tu hành nữa !

ĐÁP
Vậy là vật chất có trước, ý thức có sau đúng không ?  Đúng 50% khi đã sanh ra đời - Trước khi sanh ra đời, chưa có vật chất (thân xác),  tâm thức (ý thức) dẫn đi đầu thai trong 6 cõi, tùy theo nghiệp đã tạo kiếp trước.
 Con người là một thực thể hữu cơ, nếu không có vật chất thì không thể tồn tại? Đúng 50% - thân thể con người, con vật gồm hữu cơ và vô cơ. Không có vật chất không tồn tại.  Bởi vậy, nếu con người chỉ biết vật chất, khác chi con thú, chỉ biết sống theo bản năng? Các phim đời sống thú vật cho thấy, con vật cũng có tình cảm, nhất là tình mẫu tử, tình đồng đội. Dĩ nhiên, con người cũng như con thú, có những thành phần vô cảm, máu lạnh, do bản chất hay do xã hội.
Cũng như con người phải có lục căn, lục dục thất tình. Nếu diệt hết lục căn thì đâu phải là con người nữa, đúng không ? Lục căn là cơ thể con người. Chết sẽ bị hủy diệt. Cát bụi trở về với cát bụi. Từ lục căn (mắt tai mũi lưỡi thân ý) trên cơ thể, con người tiếp xúc lục trần (sắc thinh hương vị xúc pháp).
Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý nghĩ tưởng.
Nếu con người dừng ở đây, chính là người biết tu, là người tu chân chính.
Phải học đạo, nghe giảng, rồi suy tư nghiền ngẫm, mới giác ngộ được. Sau đó mới thực hành.
Tu mà không học là tu mù. Khi gặp nghịch cảnh con người liền sanh tâm sân hận, mất niềm tin.
Nếu là người đời thường, khi mắt (1 trong lục căn) thấy sắc (1 trong lục trần cảnh) liền sanh nhãn thức (1 trong lục tâm thức).
Nghĩa là khi mắt thấy người hay vật, trong tâm liền sanh tâm thức, hoặc thương hoặc ghét, hoặc thích hoặc chê).
Từ chỗ này, con người tạo nghiệp (thiện hoặc bất thiện).
Phần trên có nói vấn đề Quên Tu hay Khó Tu là rất đúng, còn giả bộ tu thì sao ?  Giả bộ tu, tức là tu giả, tu tướng bên ngoài, xưa nay nhiều vô số, chiếm đại đa số các người  đầu trọc.  Những người  này thường sống trong các chùa to, lo xây tượng béo,  y áo như phường tuồng cải lương, màu sắc sặc sở, xùng xình cứng ngắc như hình nộm.
Người đời thường nếu có tạo nghiệp, chỉ đọa một mình.
Bọn giả tu, tà sư trong các chùa, đọa lạc hàng hàng lớp lớp.
Bọn họ chuyên gạt gẫm bá tánh, dẫn dắt nhiều người đọa lạc vào tà đạo.
Bọn họ dùng các tà pháp thường thấy phổ biến như: tụng chú vào chai nước thỉnh về trị bá bệnh,  tụng kinh chú chữa hết bá bệnh gọi là cầu an.  Khi có người chết,  bọn chúng tranh giành làm đám ma ăn tiền, gọi là cầu siêu.  Bọn chúng đòi hỏi tang gia cung phụng xe hơi máy lạnh, đi cúng thật đông, ăn uống vật thực đắt tiền,  bày đủ trò cúng kiến cho ra vẻ linh thiêng huyền bí. Cho nên, người có học chánh pháp, hiểu rõ ràng: dâng sớ cầu an, tiền mất tật mang - cúng sao giải hạn, tai nạn vẫn tới.
Sống theo bát chánh đạo, giữ đúng thập thiện. Khi chết không cầu cũng siêu.
Nhà sư không sống được như thế, chết chưa chắc đã siêu, tụng kinh chú cầu siêu cho ai được?
Bây giờ ở VN người ta "mượn đạo tạo đời" thiếu gì, góp của người nghèo giúp đỡ người giàu .... niềm tin bị lợi dụng ! Ở trong nước hay ở hải ngoại, bọn đầu trọc gạt gẫm bá tánh nhiều vô số, chiếm đại đa số.
- Tại sao những người này làm ăn được khấm khá, ngày càng nhiều chùa loại này mọc lên như nấm?  Bởi người đời thường u mê, vô minh, mấy ai thích học đạo lý, mấy ai chịu suy tư tìm hiểu chân lý,  chỉ thích niềm tin, ai nói làm sao liền vội tin như thế.  Quanh năm suốt đời họ chỉ thích ăn chơi, thích du lịch, thích chửi nhau trên các diễn đàn, nên gặp bọn sư thích đủ thứ tương tự.  Họ đợi đến lúc gần chết, bèn chạy vô chùa thỉnh sư cứu cấp, nên có dịch vụ cầu an!   Mỗi năm họ đi chùa 1 lần, leo trèo, giẫm đạp người khác, để giành giựt lộc tết, bùa ấn, chai nước thánh, đem may mắn cả năm về nhà.  Họ hái trụi cây cảnh trong chùa, nhét tiền lẻ vào mồm, vào tay các tượng thánh, mong cầu được tiền chẳn, tiền triệu về nhà.  Người đời thường thích mê tín dị đoan thì gặp bọn tà sư cung ứng dịch vụ, tất nhiên phải chi tiền.  Tiền đã trao xong, kinh chú liền tụng ào ào, ầm ầm, nào là lóc cóc leng cheng lùng tùng xèng,  nào là cắc cắc, cạch cạch, ê a om sòm trời đất, vang vang chánh điện.)
 Bây giờ không mấy ai tin tưởng việc tu hành nữa ! Người kém phước duyên, lại không chịu học hiểu những điều chân chánh dễ sanh chán nản,  dễ mất niềm tin, bởi thường gặp, chỉ gặp bọn tà sư, giả tu, ngụy quân tử.  Tâm ứng tâm nghĩa là như thế. Người tu hành chỉ có hình tướng hay việc tu hành bất chánh là việc của người ta. Thời nào cũng thế.  Chớ than van, vô ích!
Việc của mình là phải tự lo tu nhân tích đức, tích phước, cố gắng học hiểu chánh pháp để  giác ngộ chân lý, giải thoát phiền não khổ đau, giải thoát sanh tử luân hồi. Mình nên nghiêm túc tự xét bản thân, bản tâm 3 điều sau đây:
1. có làm hại ai qua lời nói, hành động hay ý nghĩ không?
2. có làm lợi cho ai qua lời nói, hành động hay ý nghĩ chưa?
3. có luôn giữ tâm ý thanh tịnh chăng?
Thời đại hiện nay, việc tìm học, hiểu đâu là chánh pháp không phải khó khăn như trước đây.  Chỉ cần con người có phát tâm hay không mà thôi.
Đừng vì rác rưởi, đống phân trên mặt đất, mà quên kho tàng trong lòng đất.
Khi nào con người phát tâm học đạo, hội đủ nhân duyên, liền gặp chánh pháp, chánh sư, chánh nhân quân tử.  Khi đó con người giác ngộ được rằng, người nào cũng có
TAM BẢO TỰ TÂM: SÁNG SUỐT, CHÂN CHÁNH, THANH TỊNH.
Chỉ vì cảnh trần đời cuốn trôi, con người quên mất thế thôi.
Giờ đây nhớ lại được, bắt đầu tu tâm lại cũng chưa quá muộn.
Kính chúc quí vị luôn được sự bình an.

Thứ Tư 27.3.2013 - Giải đáp của VP.PHTQ.CANADA