GS. Trần Văn Giàu
Vua Quang Trung |
Đánh giặc 10 năm, bây giờ gác súng, thảo luận triết lý của lịch
sử ai lại chẳng ham ?, người tham dự đông. Số tham luận nhiều. Chỉ vài bài hơi
lạc lõng, còn tất cả đều bảo rằng tư tưởng chủ yếu của dân tộc Việt Nam suốt thời
kỳ lịch sử là tư tưởng yêu nước.
Lịch sử Việt Nam dài nhiều nghìn năm, chủ yếu là lịch sử đấu
tranh giành lại và bảo vệ độc lập dân tộc. Cho nên tư tưởng chủ yếu của dân tộc
Việt Nam là tư tưởng yêu nước xuyên suốt lịch sử, cổ kim. Sự hình thành và phát
triển của tư tưởng yêu nước đi đôi với sự hình thành và phát triển của quốc gia
dân tộc. Lịch sử Việt Nam trải qua bao nhiêu thời đại thịnh suy thì tư tưởng
yêu nước có bấy nhiêu hồi tiến lên hay suy thoái rồi quật khởi, lúc nào thực tế
cũng chứng minh rằng tư tưởng yêu nước không phải chỉ là một triết lý để nhàm
chán, nó là kim chỉ nam cho hành động, là một tiêu chuẩn để nhận định đúng
–sai; tốt - xấu; nên – chăng. Vận nước suy hay thịnh, mất hay còn, nhục hay
vinh, phần rất quan trọng này là tùy thuộc ở chỗ ta ứng dụng và phát huy hay ta
quên lãng và chôn vùi món vũ khí tinh thần ấy mà tất cả các thế hệ tổ tiên, ông
cha đều có công góp cả xương máu để rèn luyện.
… Ta có thể hiểu tại sao, một ngàn năm hơn bị đè dưới Ngũ
Hành Sơn, dân tộc Văn Lang không chết mất, quốc gia Văn Lang lại được khôi phục
trên một tầng phát triển cao hơn, tầng Đại Việt; Bài thuốc trường sinh bất tử ấy,
bài thuốc cải tử hoàn sinh ấy, xét cho cùng là một hệ thống tư tưởng yêu nước
được sơ khỏi hình thành trên đất tổ Hùng Vương, khiến cho lúc còn phải ăn
sương, uống tuyết để mà sống, người Việt Nam - người Văn Lang – không bị động
chờ hóa kiếp, mà chủ động phát huy các giá trị tinh thần của tổ tiên để lại, cuối
cùng tự mình lật đổ Ngũ Hành Sơn. Gương ông Gióng mãi mãi sáng; gương hai bà
Trưng mãi mãi sáng. Năm 938, Ngô Quyền chiến thắng trở về đóng đô ở Cổ Loa
thành thiên cổ “Nước đi ra bể lại mưa về nguồn, nước non hội ngộ còn luôn” là vậy.
Có người bảo: Hán mạt, Đường tàn thì các dân tộc bị đô hộ
thì gặp cơ may tự tháo cổng, chớ Việt Nam sức mấy tài gì? thời cơ thuận lợi thì
đúng là có đấy, nhưng nếu tài thiển, sức mọn thì làm sao tháo cổng? mà dù xông
ra được, hùm thiêng vị tất đã có thể tung hoành ở rừng xưa, chủ trại còn đó sẽ
có ngày lại bắt. Việt Nam không phải như thế, Sau Hán, Đường là Tống, Nguyên,
Minh, Thanh, tất cả các triều đại của ông khổng lồ Bắc quốc đều một, hai hay ba
lần ra sức đánh chiếm Việt Nam mà tất cả đều bị thất bại thê thảm, thì đó là
“cơ may” hay “cơ rủi” ? Đó chẳng phải là Việt Nam giành lại và giữ được độc lập
dân tộc bằng tài sức của chính mình thì nhờ đâu. Nhưng thắc mắc của người đọc sử
như thế cũng chưa được giải đáp trọn vẹn; Người ta còn hỏi về sức thì họ hơn, họ
đông hơn Việt Nam 10, 15, 20 lần, về tài họ có truyền thống tôn tử, Ngô Khởi, Đức
Mạnh ai bì? họ không phải không có lý do để khinh thị Việt Nam nhỏ như “ngón
tay”, “cái đấu” thì sao tiến công xâm lược, họ thua luôn? Hay là bên cạnh những
cách giải thích thông thường, ta còn có thể tìm nguyên nhân chiến thắng của ta ở
lãnh vực tư tưởng, tinh thần đặc biệt cao cả của các tướng sĩ, của binh sĩ nhất
là của toàn dân, của mỗi người dân ?.
Trong thời Đại Việt, dân tộc Việt Nam có nhiều người hay chữ,
chữ hán và chữ nôm. Trước, trong và sau mỗi lần chiến thắng, đều thấy nảy nở những
áng văn hay, sâu, viết trên giấy, khắc trên đá. Tất nhiên tôi vẫn dựa trên các
sự kiện lịch sử, song ở đây, tôi chủ yếu dựa vào các áng văn đó để ghi lại những
đặc trưng của tư tưởng yêu nước thời Đại Việt, nói cho gọn, đoạn này của bản
tham luận nhằm ghi lại mấy đóng góp chính của thời Đại Việt vào chủ nghĩa yêu
nước truyền thống Việt Nam.
LÝ THƯỜNG KIỆT - “NAM QUỐC SƠN HÀ”
Tư tưởng yêu nước thì thời Văn Lang đã sinh nở. Trong thời Bắc
thuộc, tư tưởng yêu nước không bị tàn lụi vì cuộc đô hộ lâu dài, trái lại, tư
tưởng yêu nước chẳng những được duy trì, mà lại có cơ hội phát triển với sự
phát triển của phong trào dân tộc giải phóng. Nhưng phải đợi đến khi độc lập được
khôi phục thì văn học yêu nước mới hình thành, văn học yêu nước bắt đầu với các
nhà sư triều (tiền) Lê, và phải đợi đến triều Lý đầu thế kỷ XI mới có những áng
văn đem lại những nguyên lý mới làm phong phú thêm chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Nổi tiếng nhất, ảnh hưởng nhất tới trăm đời về sau là bài thơ bốn câu 28 chữ của
Lý Thường Kiệt, Phát súng thần trên chuyến tuyến sông Như Nguyệt giữa quân Việt
Nam với quân Tống. Từ đền thờ hai vị thần Trương Hống, Trương Hác, tướng của
Triệu Việt Vương Quang Phục, đêm đêm vang lên mỗi bài thơ làm phấn chấn thêm tinh
thần đã cao của quân Việt, làm nản chí quân xâm lăng. Sau đó nhiều trận quyết
chiến đã buộc 20 vạn quân Tống phải rút về nước. Khiến hai ông Á Thánh Tống Nho
phải ngậm ngùi tiếc rẻ sao chỉ còn 30 dặm đường vào Thăng Long, mà không vào nổi! bài thờ thần trên dòng sông
Như Nguyệt chỉ bốn câu mà nói lên hai nguyên lý trọng đại của chủ nghĩa yêu nước
truyền thống Việt Nam.
“Nam quốc sơn hà, nam đế cư
Tiệt nhiên định phận
tại thiên thu”
Núi sông nước Nam thì Hoàng đế nước Nam ở. Tức lãnh thổ
Việt Nam thì dân tộc Việt Nam làm chủ. Cương giới đã ghi rành trên sách trời, tức
là quyền độc lập tự chủ của dân tộc Việt Nam không ai tranh chấp được, không ai
bôi bỏ được. Hai câu này đồng nội dung ý với câu “Tạo hóa sinh ra con người tự
do và bình đẳng” của Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp: với
câu “các dân tộc đều có quyền độc lập tự do” của Tuyên ngôn độc lập Mỹ. Có khác
một điều là Tuyên ngôn của Triều Lý Việt Nam xuất hiện trước hai Tuyên ngôn kia
đến mấy trăm năm, ở đây, thì “Thiên thu”, ở đó thì “Tạo hóa”, khác gì mấy ?.
“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”.
Cớ sao lũ giặc dám tới xâm phạm ?, chúng bây hãy chờ
xem, thế nào chúng bây cũng chuốc lấy bại vong! Đó là cách của thần nói rằng, bảo
rằng ta nhất định thắng, địch nhất định thua.
Bảy tám trăm năm sau, ta còn nghe lời thề quyết tâm ấy khi
kháng Pháp, kháng Mỹ. Người sau cách mạng Tháng tám năm 1945 có lý khi cho rằng
bài thơ thần trên chuyến tuyến sông Như Nguyệt là bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ
nhất của Việt Nam.
TRẦN HƯNG ĐẠO - HỊCH TƯỚNG SĨ VÀ DI CHÚC
Thiện chiến và tàn bạo của quân Thát Đát, còn góc trời Âu –
Á đâu không biết? nay Thát Đát đã diệt tống rồi, vua tôi nhà Tống đã ôm nhau nhảy
xuống biển rồi; đế quốc Nguyên Mông đã dựng lên rồi, thì số phận của nước Đại
Việt “Nhỏ như cái đấu”, ở sát hà nước Nguyên, giống như quả chuông treo bằng một
sợi chỉ, như một trái chín treo trước miệng kẻ háo ăn. Nay quân Nguyên Mông sắp
vào Đại Việt nói là mượn đường vào Đông
– Nam Á, thì triều đình nhà Trần tất phải lo đối phó. Đối phó cách nào? Không
cách nào khác ngoài cách chính mình: chuẩn bị về quân lực và chuẩn bị về tinh
thần, về việc trọng đại mà sau này ta gọi là “Công tác tư tưởng” thì lịch sử
ghi lại hai cuộc Hội nghị Diên Hồng và Hội nghị Bình Than cốt để cho ý thức
“Sát Thát” trở thành ý thức chung của toàn dân, từ vua quan, vương hầu đến tất
cả đồng bào ở đồng bằng và miền núi. Đối đầu với một kẻ địch đông nhất và mạnh nhất thế giới thì “mưu cao, mẹo giỏi”
không đủ để chiến thắng, tướng giỏi, binh khỏe không đủ để cứu nước. Nhà Trần
huy động các bậc bộ lão để cùng nhau quyết định “đánh!” truyền quyết tâm ấy cho
toàn dân. Và trong “công tác tư tưởng” năm 1284 thì bài Hịch tướng sĩ của Trần
Hưng Đạo có tầm quan trọng quyết định tới việc rèn luyện một quân đội tuyệt đỉnh
anh hùng. Hai cuộc Hội nghị và một bài Hịch đã đem những nguyên lý gì góp vào chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam ?.
1. Quân địch thiện chiến, tàn bạo và đông
đúc nhất trên đời, trước nay chưa từng có, nhưng ta quyết không sợ địch, ta đem
sức của toàn quân, toàn dân mà kháng chiến thì chắc chắn sẽ được “Bêu đầu Hốt Tất
Liệt ở Cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai”.
Đánh tan tư tưởng sợ địch, phát huy tư tưởng quyết chiến,
quyết thắng, trong tình thế này hẳn không phải là chuyện dễ, vì quân Mộng- Thát
chưa hề thua ai trên chiến trường Trung – Tây Á, Đông Âu, Trung Âu và cả Đông
Á, họ đánh bại tất cả, họ được xem như thiên thần; kỵ binh họ tới lui nhanh như
chớp giật, họ đánh mạnh như sấm sét từ Giáo hoàng ở La Mã tới Vua Tống ở Biện
Kinh đều tán đởm kinh tâm. chỉ có quân Việt Nam đời Trần mới không sợ. Mà không
sợ địch mới có thể quyết chiến quyết thắng được. Lại phải đem hết lực lượng
toàn dân nhất trí đánh giặc thì mới cản được, đuổi được giặc Mông Thát.
2. Hịch Tướng Sĩ của Trần Hưng Đạo nhận thấy rằng sau cuộc
quân ta đánh bại Vân Nam Vương thì trong một thời gian không ngắn, nước ta có
hòa bình, nên trong quân ta phát sinh tư tưởng tự mãn; tự mãn sinh ra thờ ơ, thờ
ơ sinh ra một cái họa đắm đuối trong một lối sống hưởng lạc. Cho nên làm “công
tác tư tưởng”; Trần Hưng Đạo đòi hỏi ở các tướng sĩ:
a) Phải chú tâm bảo vệ danh dự của nước nhà và của chính
mình; phải “biết thẹn”, khi nước mình, dân mình bị nhục, khi thấy sứ giả Nguyên
tại Thăng long nghênh ngang bắt nạt tể phụ; bọn chúng kiêu căng nhục mạ vô nhân
như vậy mà các tướng sĩ thản nhiên không tức giận không căm hờn vì nước bị lăng
nhục. Hịch tướng sĩ đã đánh vào cái chai lì và không biết thẹn đó.
b) Không một phút thờ ơ với vận nước, phải tránh cái lối sống
hưởng lạc: “Giặc Nguyên Mông tràn vào thì cựa gà không đâm thủng áo giáp, mẹo cờ
bạc không thể làm mưu lược nhà binh, chó săn giỏi không đuổi được quân thù,
chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho
giặc điếc tai”.
c) Phải bồi dưỡng tinh thấn thượng võ cho thật cao. “Hãy ra
sức huấn luyện binh sĩ tập dượt cung tên khiến cho người người là Bàng Mông nhà
nhà là hậu nghệ”. Có như vậy mới “bêu đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết” được.
NGUYỄN TRÃI - ĐẠI CÁO BÌNH NGÔ _ TÂU VUA LÊ
Khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng. Năm 1428 “Đại cáo bình Ngô”
ra đời. Đại cáo bình Ngô được viết cho đồng bào Việt Nam, đồng thời cũng cho
nhà Minh đọc. Chắc là đối với Thiên triều bài Đại cáo này thấm thía khá sâu.;
Sau đó 300 năm mới thấy thiện triều Mãn Thanh trở qua Việt Nam để nhận thêm bài
học Đống Đa. Còn người Việt Nam thì từ thủa ấy, ai lớn lên, đi học, mà không
thuộc lòng vài đoạn của “thiên cổ hùng
văn” này. Đại cáo bình Ngô đã đem vào kho tàng chủ nghĩa yêu nước những
tư tưởng lớn nào ?.
1. Quốc gia dân tộc Việt Nam được khẳng định là một nước Văn
Hiến lâu đời, chớ đâu phải một nước man di như các triều đại Bắc Phương kiêu
căng xếp loại; Cũng được khẳng định là một dân tộc anh hùng; Từ đời nọ qua đới
kia Việt Nam đối đầu với Hán, Đường, Tống, Nguyên “Mỗi bên hùng cứ một phương
tuy mạnh yếu nhiều lúc khác nhau mà hào kiệt thời nào cũng có” Nếu không phải
“Từ trước vốn xưng nền văn hiến đã lâu”
thì sao có thể chống lại nổi cái tử nạn Hán hóa sao có thể làm cho Việt
hóa thắng Hán hóa. Nếu không phải “Hào kiệt đời nào cũng có”, không phải là anh
hùng thì sao có thể đánh bại được kẻ xâm lược to lớn hơn mình hàng chục lần,
đánh lại họ không phải chỉ một lần mà liên tiếp các lần họ xâm lược, các bại tướng
của họ Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã Nhi hay Vương Thông, Mã Anh đều là
nhân chứng rõ ràng.
Nguyễn Trãi và Đại cáo bình Ngô nói lên được ý thức tự hào
dân tộc- một cơ sở chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước
phải làm nảy sinh chủ nghĩa anh hùng thì quốc gia dân tộc mới sống còn danh dự
được, nhất là khi đất nước ở một vị trí địa dư chính trị đặc biệt như Việt Nam.
2. Chống xâm lược là việc chính nghĩa; cứu nước, cứu dân là
việc đại nghĩa; chính nghĩa thắng phi nghĩa, đại nghĩa thắng cường bạo. Đó là
triết lý chính trị của Đại cáo bình Ngô, đó là lòng tin sắt đá của dân tộc Việt
Nam.
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy trí nhân để thay cường bạo”
3. Yêu nước là yêu dân, cứu nước là cứu dân. Một tư tưởng
lớn của Đại cáo bình Ngô. Trong một lần đánh bại Nam Hán, hai lần đánh bại quân
Tống, ba lần đánh bại quân Mông Nguyên, bên phía ta phải huy động sức mạnh của
toàn dân, chớ không phải chỉ dùng quân lực, thì mới có thể “Lấy ít địch nhiều”,
“Lấy yếu chống mạnh ” được. Trong cuộc kháng Nguyên của nhà Trần thì đã rõ ràng
rồi. Nhưng phải đến Đại cáo bình Ngô thì mục đích cứu nước và cứu dân thì mới
quyện lại thành một mối, phải đến đây, vai trò cứu nước của nhân dân mới được
chính thức tuyên dương xứng đáng
a) Đại cáo bình Ngô là “bản án chủ nghĩa thực dân” thống thiết
cụ thể nhất, đầy đủ nhất làm cho những người đương thời mà cả người đời sau sôi
sục căm thù quân Minh cường bạo: “Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
dơ bẩn thay nước Nam Hải không rửa hết
mùi” Lê Lợi khởi nghĩa, cuộc khỏi nghĩa nhằm cứu nước và cứu nước cũng là cứu
dân, “cứu nước dân để dạ, chí háo hức muốn về đông”
b) Đặc điểm của Đại cáo bình Ngô là, chiến thắng rồi mà vẫn
tuyên dương sức mạnh của nhân dân lao khổ như là sức mạnh đầu tiên xung phong
đánh giặc Minh. Lúc khởi nghĩa Lam Sơn còn trong trứng nước “Tuấn kiệt như sao
buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu” mà nhân dân lao động khổ đã sẵn sàng “dựng gậy
làm cờ, tụ họp bốn phương manh lệ”. Manh Lệ là ai? là nô tì ở các điền trang,
là quần chúng lao khổ nhất. Không tụ họp được bốn phương manh lệ thì không thể
đánh đuổi quân Minh. Ở thời khác, ở nơi khác, các ông chủ nhất là đặng chim bẻ
ná, đặng cá quên cơm. Còn ở Việt Nam thời Lam Sơn, khởi nghĩa toàn thắng, khi
non sông sạch bóng quân thù rồi thì Đại cáo bình Ngô hãy còn trân trọng ghi
công cho quần chúng vô danh, chứ không phải chỉ ghi công cho trời thần, danh tướng.
Đại cáo bình Ngô sở dĩ đã đem được cho chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam
một tính chất nhân dân vốn đậm nét của toàn cuộc kháng Minh. Người dân lao khổ
đi đánh giặc suốt mười năm, tự nhiên mang trên đầu giáo, mũi gươm những nguyện
vọng của giai tầng mình. Và những người lãnh đạo kháng chiến đã từng “hòa rượu
với nước” cùng uống với nhân dân, cũng tự nguyện không thể làm ngơ với nguyện vọng
ấy.
4. Thần vũ không giết, ta thể lòng hiếu sinh. Tư tưởng yêu
nước Việt Nam cốt giành độc lập tự do, không cốt trả hận rửa thù bằng cách giết
địch nhiều nhất. Ta hiếu sinh, không hiếu sát. Cho nên khi đánh thì quyết chiến,
quyết thắng, không sợ tốn xương máu, “Nổi gió to quét sạch lá khô”, nhưng khi
“quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp
ra ra hàng; tướng quân giặc cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng” thì “thần
vũ chẳng giết hại, thề lòng trồi ta mở
đường hiếu sinh”, “Ta lấy toàn quân làm hơn để nhân dân nghỉ sức”. Bình Định
Vương lại còn cấp cho Mã Kỳ 500 chiếc thuyền, cấp cho Vương Thông vài nghìn cỗ
ngựa để họ về nước, họ về nước rồi mà còn “Ngực đập, chân run”. Quyết chiến là
được độc lập và để có hòa bình; Độc lập, hòa bình mới là mục đích của Việt Nam.
“Càn khôn hết bỉ lại thái,
Nhật nguyệt hết mờ lại tỏ,
Mở thái bình muôn thủa
Rửa sạch mối sỉ nhục ngàn thu”
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam không phải là chủ nghĩa quốc gia
hẹp hòi càng không phải là chủ nghĩa chủng tộc.
5. Cho thôn cùng xóm vắng không còn một tiếng hờn giận oán sầu.
Thời gian trôi qua, bốn biển thái bình rồi thì những nhà cầm quyền lần lần xa
dân, sa vào lối sống hưởng lạc, triều đình lo việc xây dựng cung điện, định lễ
nhạc, người Trãi được lệnh chỉ đạo việc định lễ nhạc đó. Dịp này, Người Trãi đệ
trình một lời tâu, lời tâu này đời sau xem như một biểu hiện nguyên lý của chủ
nghĩa yêu nước thực tế đó là lời cảnh cáo của vua.
“Đời loạn thì dùng võ, thời bình thì dùng văn” ngày nay định
ra lễ nhạc là đúng lúc. Song, không có gốc thì không thể đứng vững, không có
văn thì không thể lưu hành. Hòa bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc.
Thần phụng chiểu định ra âm nhạc, không dâm không gắng hết tâm lực; song học vấn
sơ sài,nông cạn, sợ trong âm thanh luật khó làm được hài hòa. Dám mong bệ hạ rủ
lòng yêu thương và chăn nuôi muôn dân, Khiến trong thôn cùng xóm vắng không một
tiếng hờn giận oán sầu, đó tức là cái gốc của nhạc vậy”. Hẳn việc làm cho “Thôn
cùng xóm vắng bặt tiếng hờn giận, oán sấu” không chỉ cái gốc của nhạc, mà cũng
là cái gốc cho mọi chính sách của nhà nước độc lập để bảo vệ nền độc lập.
Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đến Lam Sơn khởi
nghĩa toàn thắng đã mang tính chất nhân dân khá sâu sắc, nhưng chưa có ai, kể cả
Nguyễn Trãi đi đến khái niệm “dân giàu nước mạnh”. Phải đợi đến 300 năm nữa
khái niệm ấy mới đến tâm trí của người yêu nước. Còn bây giờ đây chủ nghĩa yêu
nước của Nguyễn Trãi mới yêu cầu “vua Nghiệu Thuấn dường ấy ta đà phỉ sở
Nguyên” và trong lúc các quan đều nói “ăn lộc mang ơn vua” thì Nguyễn Trãi viết
“ăn lộc mang ơn kẻ cấy cày”. Nhà nho, dù là nho kháng chiến không ngó thẳng tới
trước, chỉ ngó ngoái ra sau. Tuy vậy, các đại văn hào của trường phái yêu nước
thân dân do Nguyễn Trãi đứng đầu đã dám nói lên những ước mơ không tưởng mà táo
bạo, Nguyễn Mộng Tuần, Lý Tử Tấn, Nguyễn Trực đồng ca ngợi, mong chờ một xã hội
“duy tân”.
“Dân ở trong cày yên ổn vui tươi
Vật sinh nơi đó, dong chơi hớn hở
Cày ruộng, đào giếng, mặc ấm, ăn no
Già nua lụm cụm mà không thui, không lụi
Ngày làm đêm nghỉ không biết
nhọc nhằn..”
Một Lý tưởng xã hội mọc lên với cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc thắng lợi.
ĐÓNG GÓP CỦA NGUYỄN HUỆ
NGƯỜI “ANH HÙNG ÁO VẢI CỜ ĐÀO” CHO HỆ THỐNG TƯ TƯỞNG YÊU NƯỚC
VIỆT NAM
Bia kỷ niệm chiến thắng Ngọc Hồi |
Nguyễn Huệ không để lại một bài viết nào, một di chúc nào.
Ông chết đột ngột. Nhưng thành tích của người anh hùng “áo vải cờ đào” này là cả
một pho sách. Phần đóng góp của Nguyễn Huệ
vào chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có hai trọng điểm, hai nguyên lý lớn là
:
1. Thứ nhất là luôn sẵn sáng chiến đấu. Lịch sử chép rằng
khi Nguyễn Ánh rước hai vạn quân Xiêm với 300 chiến thuyền của họ thình lình đổ
bộ lên Hà Tiên, nhằm Gia Định mà tiến, thì tướng Tây Sơn ở Nam liệu sức không cản
nổi, liền phi báo cho Nguyễn Huệ ở Quy Nhơn. Đường Hà Tiên - Gia Định bằng một phần ba đường Quy Nhơn –
Gia Định. Vậy mà khi hai vạn quân Xiêm và tàn quân Nguyễn Ánh mới mò lên tới Tiền
Giang, thì bị quân Nguyễn Huệ tiêu diệt ở Rạch Gầm gần toàn bộ trong nửa buổi
sáng.
Lấy cớ đưa vua Lê Chiêu Thống về , 250.000 quân Thanh vào
Lang Sơn nhằm Thăng Long mà tiến; Tướng
Tây Sơn ở Bắc liệu sức không cản nổi, liền phi báo cho Nguyễn Huệ ở Phú Xuân.
Đường Phú Xuân – Thăng Long hơn năm lần xa hơn đường Lạng Sơn – Thăng Long. Vậy
khi mà đại quân Thanh vừa hạ trại bên bờ Sông Hồng đang lo vui tết, thì đại
quân Nguyễn Huệ đã tới núi Tam Điệp, thong thả ăn tết sớm, rồi trong trận đánh
liên tục kéo dài trong năm ngày đêm, toàn bộ 250.000 quân Thanh bị đánh tan
tành, chủ tướng Tôn Sĩ Nghị chạy bỏ cả ấn tín !
Có mấy ai, có đời nào sẵn sàng chiến đấu hơn? quyết chiền thắng
hơn? cắt nghĩa chiến thắng bằng thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ là đúng mà không
đủ. Còn phải tìm nguyên nhân sâu xa hơn nữa với chủ nghĩa yêu nước truyền thống
Việt Nam được phát huy cao độ bởi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ít nhiều tính chất chống vua chúa áp bức.
2. Phần đóng góp của Nguyễn Huệ vào hệ thống tư tưởng yêu nước
Việt Nam là ý thức và sự nghiệp thống nhất nước nhà. Vấn đề lớn này ở triều
Đinh được đặt ra lần thứ nhất và Đinh Bộ Lĩnh đã giải quyết bằng cách đánh dẹp
Thập Nhị sứ quân. Đến thời Lý Trần và Lê sơ không có vấn đề này. Nước Việt Nam
khi ấy là Đại Việt vốn là một nước thống nhất.Nhưng từ 1527, Đại việt bị phân
liệt, tình trạng phân liệt kéo dài đến gần cuối thế kỷ XVIII, hơn 200 năm. Bắt
đầu là phân liệt Bắc Nam triều giữa Lê và Mạc, kế đó là Trịnh – Nguyễn phân
tranh. Phân liệt phân, tranh thì yếu. Yếu thì dễ xâm lược. Trong vài trăm năm,
Trịnh – Nguyễn đánh nhau tới bảy lần. Mạc, Trịnh, Nguyễn không ai có tư tưởng
thống nhất nước, tất cả họ chỉ có ý đồ xâm chiếm lẫn nhau. Cứ như thế thì cái họa
bị xâm lăng ắt khó tránh. Nội chiến chỉ chấm dứt khi khởi nghĩa Tây Sơn thắng lợi,
lần lượt đánh đổ cả hai chúa Nguyễn, chúa Trịnh, đánh đổ luôn vua Lê; Trong Nam thì đuổi quân Xiêm, ngoài Bắc thì
đánh đuổi quân Thanh; lãnh tụ Tây Sơn đường đường chánh chánh lên ngôi Hoàng Đế,
vua Càn Long nhà Thanh dù mới đại bại (hay là vì đại bại) mà phải công nhận
Quang Trung là vua nước Việt Nam. Thời gian thống nhất Việt Nam dưới cờ Quang
Trung, tiếc thay quá ngắn! Quang Trung băng hà quá sớm, đột ngột, người nối
nghiệp bất tài. Đại nghĩa tự nó không đủ
tạo ra đại nghiệp, còn phải có người đại tài. Quang Trung chết sớm, chết
tức là một sự kiện ngẫu nhiên. Sau đó
thiếu gì những ngẫu nhiên khác. Các ngẫu nhiên kết lại, nối ra thành cái
tất yếu. Đất đã được dọn thì sự thống nhất không thể không đến “nước Việt Nam
là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý ấy
không bao giờ thay đổi”. Trong việc lập lại sự thống nhất sau thời gian phân biệt
lâu dài thời Lê mạt thì người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ là vĩ nhân đã khởi xướng
và bắt đầu thực hiện sự nghiệp ấy.
3. Vậy là từ khi Ngô Quyền tiêu diệt quân Nam Hán đến khi
Nguyễn Huệ đánh bại quân Mãn Thanh trong hơn tám thể kỷ, Việt Nam đã đại thắng
tám lần. Một nước “nhỏ bằng ngón tay”, “nhỏ như cái đấu” đã liên tiếp đuổi được
quân cướp nước. Còn ai có thể nói đó là “cơ may” nữa? Nhưng trừ ra lần diệt
quân Nam Hán, tất cả các lần đánh bại Tống, Nguyên, Minh, Thanh xong rồi, Việt
Nam đều chiếu theo nguyên lý của chủ nghĩa yêu nước truyền thống là chiến thắng
để có hòa bình lâu dài, biết rằng một nước nhỏ ở cạnh một đế quốc phong kiến khổng
lồ, nên Việt Nam lần nào cũng phải nhún nhường để cho nước lớn chấm dứt binh
đao, lợi cho hai bên mà cũng lợi cho họ, lợi cho tất cả các dân tộc gần xa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét