Thứ Năm, 31 tháng 10, 2013

LẼ THƯỜNG

TRẦN CHI
  
Họ nói chuyện với nhau hàng giờ liền không chán như bao cặp tình nhân đang yêu khác. Gọi điện thoại hẹn chiều gặp cũng mất gần nửa tiếng đồng hồ. Có cảm giác như thời gian không bao giờ đủ cho họ.
Những tưởng hôn nhân sẽ là cơ hội họ có thể nói với nhau nhiều hơn... Nào hay, tiếng nói đối với họ giờ đây giống như một thứ của cải có giới hạn mà ngày xưa họ xài quá nhiều rồi...

PHAN THANH GIẢN "Ngôi Sao Cô Đơn"

Nguyễn Thiếu Dũng
Muốn hiểu cho đúng về nhân vật lịch sử, không thể tách họ ra khỏi môi trường họ đã sống. Không thể bỏ quá những ràng buộc của hoàn cảnh đã quy định cách nghĩ, cách làm của họ. Chỉ có cách ứng xử trong thời gian không gian họ đã tồn tại cùng những người đồng thời với họ mới cho ta thấy được bản lĩnh và nhân cách của họ.
Yoshiharu Tsuboi, tiên sĩ sử học, người Nhật Bản, đã đánh giá chính xác về Phan Thanh Giản: "Phan Thanh Giản là người là người được biết nhiều hơn hết trong tất cả các quan lại Việt Nam dười triều Tự Đức, bởi vì ông đã tuẫn tiết vì tổ quốc năm 1867, Hành động anh hùng ấy và khuôn mặt cao quý của ông đã hấp dẫn nhiều nhà viết tiểu thuyết và nhiều sử gia kể cả Pháp và Việt" (1, tr. 219).
Phan Thanh Giản được giao phó nhiều trọng trách mà ngoài ông ra không ai có thể thay thế được và cũng không mấy ai muốn thế chỗ của ông vì quá khó khăn mà thất bại thì đã cầm chắc.
Ngày 2-tháng 12- 1859, Pháp xâm chiếm Sài Gòn. Năm 1862, Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp được cử làm Chánh, Phó sứ toàn quyền đại thần vào Nam thương lượng ký hòa ước với Pháp. Nhưng mối bận tâm sinh tử của triều đình lúc bấy giờ không phải là chuyện mất nước về tay Pháp mà trước mắt là cuộc nổi dậy của những người tự xưng là con cháu nhà Lê đang đe dọa sự tồn vong của nhà Nguyễn.Tự Đức muốn tập hợp tối đa lực lượng quân sự để đập tan những kẻ khởi loạn ở Bắc Kỳ nên đã chỉ thị cho Phan Thanh Giản phải nhanh chóng nhượng bộ để ký hòa ước ngày 5-6-1862. Dư luận lên án, phản đối, Phan Thanh Giản bị giáng chức. Năm 1863, triều đình nghị xử Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp án trảm giam hậu. Tự Đức khoan hồng chỉ xử Phan Thanh Giản bị cách lưu. Còn Lâm Duy Hiệp đã từ trần sau khi nhậm chức Tuần phủ Khánh Hòa thì bị truy đoạt hết mọi chức tước, phẩm hàm (2, tr. 39). Tại sao cùng chịu trách nhiệm về vụ ký hòa ước 1862 mà chánh sứ Phan Thanh Giản bị xử nhẹ hơn Phó sứ Lâm Duy Hiệp, chỉ vì Lâm Duy Hiệp đã chết không còn khả năngđới công chuộc tội, trong khi đó nhà vua vẫn còn cơ hội để khai thác tài sức của Phan Thanh Giản. Về sau, khi Phan Thanh Gỉan được khôi phục chức cũ, nghĩ đến người đồng sự đã nằm dưới đất không được ân sủng của vua không khỏi đau lòng, ông dâng sớ xin cho dùng án mệnh mình được hưởng để chuộc tội cho Lâm Duy Hiệp. Tự Đức bảo ông, Lâm Duy Hiệp chưa hoàn thành nhiệm vụ mà đã chết trước, trẫm mong có ngày khanh lập được công thì sẽ căn cứ vào công lao đó mà ban ơn đến viên quan đã chết. Nếu khanh có lòng ấy thì hy vọng không phải là ít. Khanh nên cố gắng mưu tính đi. (3, tr. 44)
Tháng 6-1863, Phan Thanh Gỉan được giao nhiệm vụ cầm đầu phái bộ sang Paris thương lượng chuộc lại 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ, vì ông là người, theo nhận xét của Georges Taboulet, tinh khôn nhất trong các nhà ngoại giao của Tự Đức (1, tr.224). Rất may, chuyến đi có kết quả, Napoleo III hứa cho chuộc lại 3 tỉnh miền đông bằng tiền. Tháng 3-1864, sứ bộ về nước báo tin mừng cho vua và chờ đợi những ký kết tiếp theo. Nhưng bất ngờ, bộ trưởng hải quân Pháp Chasseloup Laubat chống lại dự án. Chuyến đi Pháp của Phan Thanh Gỉan hóa ra thất bại hoàn toàn. Triều đình lại nghị tội Phan.
Tháng 1-1865, Đô đốc La Grandière với tham vọng đẩn mạnh cuộc xâm lược Nam Kỳ  được phong làm thống đốc Nam kỳ thuộc Pháp. Tháng 1-1866, Phan Thanh Gỉan được đưa trở lại Vĩnh Long với tư cách Kinh lược đại thần 3 tỉnh miền Tây. Bấy giờ Phan Thanh Gỉan đã 70 tuổi dâng sớ xin nghỉ vì "sức ngựa đã kiệt rất sợ làm không xong, việc để lầm lỡ". Vua không cho và hết lời động viên ông cố chu toàn nhiệm vụ. Theo luật hồi ty của nhà Nguyễn, người làm quan không được nhậm chức ở quê nhà nhằm tránh việc làm lợi cho gia tộc mình. Tuy nhiên trước tình thế dầu sôi lửa bỏng, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên đã trở thành tuyến đầu đang nằm trước nanh vuốt của thực dân, Tự Đức không quan tâm đến chuyện đó mà chỉ cần người có khả năng gánh vác nổi trọng trách.
Trước khi đi, Phan Thanh Gỉản còn được nhà vua răn bảo: "Người Pháp muốn ta bỏ hẳn dân ta. Biết rằng dân ta không cam tâm chịu vậy, nên ta đã nhiều lần sai người đi để bí mật khuyên họ dẹp yên. Vài kẻ quấy rối không chịu nghe lời khuyên bảo, hành động của chúng làm người Pháp nghi ngờ và nhiễu hại nhân dân. Mặt khác, người Pháp có thể vin vào đó để gây sự với ta, số phận 3 tỉnh kia trơ trọi sẽ rất nguy hiểm. Nếu ta chấm dứt mọi quan hệ với 3 tỉnh đã mất, dân đã dần dần dứt tình với ta; nhưng nếu ta không chấm dứt quan hệ, công việc sẽ không thu xếp được. Để đối phó với việc cấp bách nhất, không thể không đoạn tuyệt với 3 tỉnh. Để nhân dân các tỉnh ấy không còn nổi dậy, chỉ có một cách là đoạn tuyệt. Chỉ bằng cách ấy ta mới giữ được dân để mong sau này có ngày ta giải phóng được cho dân." Rồi vua ra lệnh cho quan lại 3 tỉnh miền Tây cấm những ai tự xưng là quân khởi nghĩa không được vào địa giới của mình. Ai thấy phải bắt ngay, ai che dấu cũng bị ghép tội như quân nổi loạn (2, tr.43). Đồng thời Cơ mật viện cũng đệ trình ý kiến: "Xin tự cho quan kinh lược không đánh nhau với quân Pháp, tự phải rút lui ...Nếu người Pháp bức lấy tỉnh Vĩnh Long, thì hãy còn 2 tỉnh An Giang, Hà Tiên, có thể dời về đấy hoặc bị người Pháp bức lấy tất cả, thì tất nhiên phải chuyển về Bình Thuận để đợi lệnh triều đình, đến khi ấy sĩ dân 6 tỉnh tức giận lũ lượt nổi lên, bấy giờ ta sẽ tùy cơ định liệu" (2, tr 84).
Từ ngày 20 đến ngày 27 tháng 6 năm 1867, La Grandière tiến chiếm Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên mà không gặp sức kháng cự nào. Phan Thanh Gỉan ra lệnh cho các nơi nộp thành, sau d91 tuyệt thực rồi uống thuốc độc tuẫn tiết. Ông mất ở thành Vĩnh Long ngày 4-8-1867 thọ 71 tuổi.
Trang sử bi thảm của đất nước cũng là trang sử bi thảm của Phan Thanh Gỉan.
Năm 1868 Phan Thanh Gỉan bị nghị tội, bị truy đoạt mọi chức tước, phẩm hàm, bị xóa tên trên bia tiến sĩ. Mãi đến thời Đồng Khánh mới được khôi phục nguyên hàm cho lập lại bia tiến sĩ.
Phan Thanh Gỉan là người có óc cánh tân, khi đi sứ sang Pháp, ông chăm chỉ quan sát nghiên cứu các mặt khoa học kinh tế kỹ thuật xứ người, khi về nước đã đề đạt nhiều phương cách làm cho đất nước văn minh, cường thịnh nhưng cả vua quan chẳng ai nghe theo đề nghị của ông. Ông than: "Từ ngày đi sứ sang kinh đô nước Pháp, tôi đã thấy những công trình của nền văn minh Tây phương, tôi không thể không có cảm giác vừa khâm phục vừa kinh sợ. TRở về nước, tôi ra sức kêu gọi đồng bào thức tỉnh, ra khỏi cơn mê muội trong đó họ chìm đắm quá lâu. Than ôi! Dù tôi cố gắng thuyết phục, chẳng ai tin những điều tôi nói là đúng sự thất". (1, tr. 227)
Sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt, thế không thể làm gì được, Phan Thanh Gỉan như một ngôi sao cô đơn chỉ còn biết lấy cái chết để bày tỏ nỗi niềm đắng cay như một lời tạ tội với non sông.
 Nguồn tham khảo:
1- Yoshiharu Tsuboi , nười Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa 1847-1885 nxb Trẻ 1998
2- Nguyễn Đắc Xuân, phụ chính đại thần Trần Tiến Thành nxb Thuận Hóa , Huế 1992
3- Viện sử học, Đại nam chính biên liệt truyện nhị tập nxb Thuận Hóa , Huế 1993


Thứ Tư, 30 tháng 10, 2013

ÂN CẦN, QUAN TÂM


Một trong những quà tặng tuyệt vời mà bạn có thể chia sẻ là sự quan tâm chăm sóc, sự tôn trọng  thể hiện qua thái độ biết lắng nghe một cách tích cực. Đó là kiểu lắng nghe không chỉ bằng tai mà còn bằng ánh mắt, bằng cả tấm lòng và cả sự quan tâm trọn vẹn.
Muốn chữa khỏi bệnh cho bệnh nhân, người bác sĩ trước tiên phải biết lắng nghe kỹ càng bệnh trạng của họ để chẩn đoán chính xác trước khi kê toa thuốc. Khi lắng nghe, hãy tạm quên đi những gì mình định nói để có thể nghe một cách đầy đủ, trọn vẹn hơn.
Tạo cho người khác cơ hội bày tỏ tâm tư tình cảm rồi ân cần lắng nghe họ chính là một hình thức chia sẻ tuyệt vời. Khi bạn học được cách lắng nghe người khác, bạn mới có thể đưa ra những lời khuyên phù hợp có ảnh hưởng tích cực đối với họ.

(The Power of Giving: How Giving Back Enriches Us All

LẼ ĐỜI

CA DAO

Bà bán quán trước cổng trường qua đời trong một đêm giông gió. Những tưởng đám tang bà sẽ rất ảm đạm và vắng lạnh bởi bà lâu rồi chỉ còn sống một thân một mình. Nhưng lũ trẻ trong trường đã đến tiễn đưa bà, hàng hàng dài sau linh cữu. Ngày xưa, bà bán quà cho chúng, bà hỏi thăm, nhắc nhở chuyện học hành của chúng. Và những buổi chiều tối, bà để chúng ngồi chờ bố mẹ trong cái quán ọp ẹp của bà.

KHỔ SỞ TƯỞNG TƯỢNG

Lưu Dung


Mấy hôm trước, con tự đi bộ tới nhà ga, lúc về thì than thở: "Trời ơi, suýt nữa là con không bắt kịp tàu. Cha biết đường xa thế nào không? Hơn hai mươi lăm phút, đó là con còn chạy nữa đấy!"
Nghe con nói, hôm nay lần đầu tiên ba đi bộ ra ga, ba đi từ sớm.. Không ngờ, suốt quãng đường ba chỉ "đi" mà mất có hai mươi phút. Khổ cho ba phải mất nửa giờ đợi tàu đến. Khi về, chất vấn con, con mới nói:
"Không phải con chạy suốt đâu, mà đi lững thững ... nhưng khi nhận ra sắp bị muộn thì con mới chạy!"
Ba phải mắng con: "Lại một lần nữa cing cấp thông tin sai lạc, lại còn tự tạo ra thứ khổ sở tưởng tượng."
Khổ sở tưởng tượng, không chỉ có con mà rất nhiều người lớn cũng bị như thế. Ví như mới đây, một công ty nội thất giao cho ba chiếc bàn, tuy họ đã giao trễ mất mười mấy ngày mà ông chủ còn hổn hển qua điện thoại: "Phải vất vả lắm mới làm xong!"
Khi chiếc bàn viết được giao đến, trong ngăn kéo toàn vỏ bào, vệt keo dán tràn cả ra ngoài, kết quả ba mất toi cả nửa ngày để sửa sang.
Nhìn bộ dạng đầm đìa mồ hôi của ông chủ thì cứ nghĩ rằng bao thời gian chậm trễ đều dành để vật lộn với chiếc bàn đó. Nhưng khi ba hỏi công nhân làm mất bao lâu thì họ cười: "Nếu chuyên tâm, hai người làm không tới 4 ngày!"
Xem ra ông chủ này cũng giống như con, cả hai đều tạo ra một thứ khổ sở tưởng tượng.
Ở Đài Loan, ba thường gặp mấy chiuye65n kiểu như thế. Đem tranh đi bồi, hẹn mười mấy ngày sau lấy, ba còn dặn kỹ thợ cả ít nhất phải áp tranh lên tường bảy ngày cho khô, tránh sau này tranh bị biến hình. Vậy ma mấy ngày trước khi lấy tranh, ba ghé qua xem, thấy họ vẫn chưa đụng đến.
Khi ba trách họ sao không làm sớm, mọi người đều nói: "Không cách gì làm được ngay đâu, tranh của ai cũng bị chậm vài ngày. Nếu làm tranh của bác trước thì tranh của người khác không xong!"
Nghe có vẻ rất có lý! Nhưng tại sao không nghĩ: Nếu cửa hàng cứ ngưng mấy ngày không nhận bồi tranh mới, hoặc bỏ mấy ngày nghỉ để bồi hết số tranh bị chậm thì liệu có giao tranh đúng hẹn không?
Lý do họ không giao tranh được đúng hẹn thật đơn giản: vì "lần khân" mà cái tật "lần khân" thì có quán tính liên tiếp. Mọi việc cuối cùng cũng đều phải hoàn thành, vì lần khân đến một lúc nào đó cũng chẳng lần khân thêm được nữa. Chỉ là khi anh đã lần khân làm chậm một việc này, đến việc sau anh lại bị lần khân làm chậm.
Thế là lần khân cứ nối tiếp lần khân! Rốt cuộc thì việc nào cũng phải làm, mà việc nào cũng không thể làm xong đúng thời hạn. Không biết xắp xếp, họ lại kêu khổ với người khác. Đúng là khổ sở thật, nhưng do "lần khân" mà tự tạo ra khổ sở. Tuyệt đối không phải do chính bản thân công việc là khổ sở.
Lần khân cũng là một thói quen của người đời. Nguyên nhân cơ bản của nó là "lười"; một khả năng khác là do không biết lập kế hoạch thời gian. Phương thuốc công hiệu rõ ràng cho căn bệnh này là "việc đến tay phải làm ngay". Không được do dự bở do dự cũng làm mất thời gian. Nhiều người do quá bận nên bấn loạn, không biết làm việc này trước hay việc kia trước. Kết quả là trong khi người bắt tay làm ngay đã hoàn thành bao nhiêu việc thì họ vẫn còn chưa bắt đầu.
Còn một phương thuốc không những công hiệu tức thì mà còn chữa dứt căn bệnh, đó là liệt kê các việc ra, xác định thứ tự ưu tiên rồi lập tức giải quyết!
Còn nhớ trước kia có người hỏi thủ tướng Anh Thacher làm sao bà có thể vừa giải quyết công việc chính sự bộn bề mà vẫn chăm lo được cho gia đình. Câu trả lời của bà là: Liệt kê các việc cần làm ra, hoàn thành việc nào rồi thì cứ gạch việc đó đi. Nghe thật đơn giản nhưng cũng có lý. Bà tích cực hành động, có kế hoạch trước sau và điều chỉnh ngay tùy theo tình huống.
Khi con thấy mình chậm chạp, "lần khân", không kịp giờ, xin hãy nghĩ đến lời cha: Hảy tranh thủ thời gian rỗi rảnh để liệt kê những việc không thể không làm trong tương lai, đồng thời hoàn thành ngay những công việc đã bị dây dưa, con sẽ thấy, tuy mất một hay hai ngày nghỉ cuối tuần nhưng mọi việc lại đâu vào đó.
Quan trọng nhất là: Đừng tạo ra khổ sở tưởng tượng nữa. Khi đã vì lần khân lúc trước mà phải khổ sở cuống cuồng lúc sau, xin con đừng than vãn thở dài.

Thứ Ba, 29 tháng 10, 2013

Ba giải pháp ngăn chặn thảm hoạ y đức

Bình Yên

SGTT.VN - Vụ ném xác bệnh nhân của bác sĩ Nguyễn Mạnh Tường đang được nhiều người xem là thảm hoạ y đức của nước nhà. Vì sao gây bức xúc xã hội trong nhiều năm qua, sự xuống cấp y đức vẫn không dừng lại, mà ngày một nặng nề? Đến lúc những nhà quản lý phải xem lại những giải pháp đặt ra hiện nay và quan tâm đến ý kiến của những người tâm huyết.

Chắt lọc đầu vào y khoa
Thật vậy, trái với những ngành nghề khác trong xã hội, điều kiện hàng đầu của người học y khoa là phải có ý hướng phục vụ cộng đồng, bởi đây là nghề phục vụ con người. Nếu người học chỉ biết nghĩ đến mình, không có tấm lòng chia sẻ, cảm thông với nỗi đau của người khác, người đó trước sau cũng gây tai hoạ.
Bác sĩ Nguyễn Hữu Tùng, nguyên tổng giám đốc tập đoàn y khoa Hoàn Mỹ, đã nhiều lần đề nghị việc tuyển chọn người học y khoa phải dựa trên việc phỏng vấn trực tiếp người học, xem họ có phù hợp với ngành y hay không. Theo ông, ở những nước tiên tiến, việc tuyển chọn đầu vào y khoa rất khắt khe bởi đây là nghề liên quan đến tính mạng con người. Người học phải trải qua một cuộc phỏng vấn chặt chẽ. Để được ưu tiên tuyển chọn, người học còn phải nộp giấy chứng nhận tham gia các hoạt động xã hội khi còn là học sinh phổ thông (thí dụ làm tình nguyện viên tại bệnh viện hoặc nhà dưỡng lão). Một người có chí hướng mạnh mẽ như thế đáng để cho học.
Trong khi đó, cách chọn người học ngành y nước ta chỉ dựa vào điểm đầu vào tuyển sinh đại học, chưa kể còn đào tạo tràn lan, xem sản phẩm đào tạo y khoa không khác gì bất kỳ sản phẩm đào tạo nào khác. Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, giảng viên đại học y khoa Phạm Ngọc Thạch, TP.HCM nói: “Ngày nay là thời bình rồi, không thể đào tạo bác sĩ kiểu hàng loạt như thời chiến được. Trước năm 1975, để học y khoa, người học phải làm một test kiến thức tổng quát về xã hội, âm nhạc, nghệ thuật, lịch sử, địa lý. Bên cạnh kiến thức y khoa, một thầy thuốc còn phải có kiến thức tổng quát, bởi nếu không họ sẽ không cảm thông người bệnh”.
Có gì khác nhau giữa bác sĩ thời nay và thời xưa, hỏi một người thầy thuốc lớn tuổi, người này nói: “Bác sĩ thời nay năng động, giỏi chuyên môn, nhiều kỹ năng vì có nhiều phương tiện học tập rất tốt, nhưng phần lớn họ không có tấm lòng với bệnh nhân”. Phải chăng đây là kết quả của việc đào tạo y khoa hiện nay? Tại sao những tích cực trong đào tạo y khoa nước ngoài không được những nhà quản lý nước ta áp dụng?

Thành lập y sĩ đoàn
Khi sinh thời, cố bác sĩ Dương Quang Trung luôn quan tâm với việc thành lập y sĩ đoàn, xem đây là biện pháp tốt để giải quyết những bức xúc trong ngành y tế như xuống cấp y đức, gia tăng tai biến y khoa. Ông nói: “Thanh tra y tế cũng tốt, nhưng lực lượng của họ cũng có hạn, không thể tăng thêm mãi. Vậy để quản lý tốt giới hành nghề, nên có y sĩ đoàn để cùng Nhà nước tham gia quản lý. Các bác sĩ khi muốn hành nghề phải tham gia y sĩ đoàn, nếu xảy ra chuyện, cứ dựa theo nghĩa vụ luật để phân xử, tránh tình trạng nể nang nhau. Bác sĩ bị gạch tên khỏi y sĩ đoàn sẽ không thể hành nghề ở đâu được nữa”.
Ở nước ta, hội hành nghề y không thiếu, hầu như chuyên khoa nào cũng có, nhưng vai trò của các hội này đến đâu còn phải bàn. Liên quan đến vụ việc bác sĩ Nguyễn Mạnh Tường, PGS.TS.BS Lê Hành, chủ tịch hội Phẫu thuật thẩm mỹ TP.HCM, cho biết: “Hội nghề nghiệp ở các nước có vai trò rất lớn, có ý kiến trong cấp phép hành nghề, được tổ chức đào tạo y khoa liên tục như một căn cứ để cấp phép và tiếp tục cấp phép hành nghề mỗi năm. Còn ở nước ta, vai trò hội nghề nghiệp rất nhạt nhoà, chúng tôi chỉ có thể quản lý hội viên, còn thẩm mỹ viện của hội viên không quản lý được”.
Giới chuyên môn quản lý giới chuyên môn, đó là biện pháp hiệu quả đã được chứng minh ở những nước phát triển, tại sao nước ta không làm được? Không lẽ người quản lý nhà nước sợ mất quyền lực hoặc lợi ích?

Xem lại mục tiêu giáo dục
Phát biểu trên một tờ báo, PGS.TS Trịnh Hoà Bình, giám đốc trung tâm Điều tra dư luận xã hội – viện Xã hội học Việt Nam, đánh giá “sự biến dạng của y đức ngày nay một phần là hệ quả của quá trình đào tạo con người bắt đầu từ bậc phổ thông, đến bậc đại học”. Nhận xét này đáng lưu ý vì người bác sĩ suy cho cùng cũng là con người tiếp nối của những con người trong nhà trường.
Thế nhưng việc giáo dục nước ta khá xa lạ với bốn nguyên tắc giáo dục do UNESCO (tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hoá Liên hiệp quốc) đề nghị: học để biết, học để làm, học để tự khẳng định và học để chung sống. Đâu chỉ người ngành nghề khác, không ít bác sĩ thời nay cũng xa lạ điều này, như kết quả tất yếu từ việc đào tạo y khoa. Biết làm ngành y phải luôn lắng nghe và quan tâm bệnh nhân, nhưng tại bệnh viện Thiệu Hoá (Thanh Hoá), bác sĩ nghe người nhà gọi năm lần bảy lượt vẫn không đoái hoài, hậu quả là mẹ con sản phụ tử vong. Không có chuyên môn, chưa được cấp phép làm thẩm mỹ nhưng vẫn làm, hậu quả là bác sĩ Nguyễn Mạnh Tường đã để khách hàng tử vong.
“Cơ chế thị trường với sự chi phối của đồng tiền và tính vị kỷ bản thân đã khiến những thầy thuốc sa ngã, thậm chí phạm tội”, ông Trịnh Hoà Bình nói. Đúng thế, một xã hội tôn thờ giá trị vật chất đã tác động đến nhiều người đủ ngành nghề, trong đó phải có người làm ngành y. Một bác sĩ lâu năm băn khoăn: “Thầy thuốc nước ta đang bị chi phối bởi hoa hồng, tiền bạc. Làm bác sĩ thường kê toa thuốc ăn hoa hồng, làm trưởng khoa ăn hoa hồng dụng cụ, lãnh đạo bệnh viện ăn hoa hồng xây dựng và mua sắm trang thiết bị. Cái gì cũng quy ra tiền bạc, người bác sĩ không sa ngã cũng không được”.