Thy Anh & Sáo
Sành
Qua khỏi Đàn Nam
Giao, có con đường đi thẳng lên lăng Thiệu Trị và cách lăng này chừng vài trăm
mét về mé bên phải có một cái bến đò đưa khách qua sông. Dừng bên này bến nhìn
sang thấy 2 quả đồi nối nhau, tiếp theo là một khu rừng um tùm, lưng chừng đồi
là Đền Ngọc Trản hay Điện Hòn Chén, nơi thờ bà Thiên Y A Na. sau những rặng cây
nhấp nhô. Gần điện, có những bậc đá chạy thẳng xuống bờ sông.
Đoạn sông trước mặt đền
có tiếng rất sâu, dân chài tài giỏi đến đâu cũng không sao lặn hết được. Trước
kia, mỗi khi ghe thuyền đi ngang qua đây, ai nấy cũng phải im hơi lặng tiếng để
tỏ lòng thành kính. Tương truyền nhiều người bị đắm thuyền chết đuối cũng chỉ
vì đã ngạo mạn với nữ thần. Vua Tự Đức thấy dân chúng nhiều kẻ bị nạn, nên trong
một buổi sáng cúng tế, đã đeo vào tay nữ thần một chuỗi bồ đề và xin thần rủ
lòng từ bi đối với chúng sinh. Cũng từ đó, tai nạn trên sông không xảy ra nữa,
hiện nay trên tay nữ thần người ta còn thấy chuỗi hạt.
Trong bến, ở hốc núi
đá, có một con trạnh rất lớn thường nổi lên mặt nước. Các đệ tử của Mẫu thì quả
quyết chỉ những hôm tế lễ "cố" trạnh mới nổi lên để chầu mà thôi. Họ
không dám gọi bằng "con" mà phải gọi bằng "cố". Theo sách Đại
Nam Nhất Thống Chí thì ngay từ triều Minh Mạng đã thấy nói đến "cố"
trạnh rồi. "Cố" từ hốc đá sâu, lớn hơn cả chiếc chiếu vụt lên khỏi mặt
nước làm tóe bọt trắng xóa. Nhiều người trông thấy hoảng sợ cho là sứ giả của
Hà Bá. Nhưng không rõ con trạnh sau này với con trạnh dưới thời Minh Mạng có phải
là một hay không?
Đền lấy tên là Ngọc
Trản (chén ngọc) vì dựng trên đồi Ngọc Trản, thường được gọi nôm na là Điện Hòn
Chén. Ra sau Điện, leo lên chóp đồi, về phía bên phải, có một chỗ đất tự nhiên
trũng xuống, đường kính đến 1 m, mùa mưa
nước đọng lại, những phiến đá lớn cao, nhọn, bọc chung quanh làm thành hình cái
chén. Nhiều người cho rằng danh từ Ngọc Trản là do cái chén ấy mà ra.
Đền dựng từ năm thứ
13 triều Minh Mạng (1832) đến lúc vua Đồng Khánh lên ngôi thì đổi tên thành Huệ
Nam Điện. Vua Đồng Khánh hết sức tôn kính bà Thiên Y A Na. Lúc còn là hoàng tử,
ngài thường lên viếng điện này, cầu xin nữ thần phù hộ cùng hỏi xem mình có hy
vọng gì cầm quyền trị nước hay không? Trong một buổi hầu đồng, Thần đã cho biết
năm nào Ngài sẽ lên ngôi và cả năm ... băng hà nữa (!)
Sau khi lên ngôi, vua
Đồng Khánh thân hành đứng ra trông coi việc xây Điện Huệ Nam, cũng cùng thời
gian với việc xây lăng của mình ở Thiên Thành, đối diện với Điện này. Vua tin
theo lời tiên đoán của nữ thần vể tuổi thọ ngắn ngủi của mình nên đã sớm lo liệu
nơi an nghỉ cuối cùng.
Theo người Chàm (Huế
trước kia là của người Chàm) thì nữ thần Thiên Y A Na (Poh Nagar) là hóa thân của
những áng mây bọt nước, do trời sai xuống để tạo lập quả đất làm phát sinh lúa
gạo và các thứ gỗ quý như trầm hương, kỳ nam. . .
Theo chế độ mẫu hệ,
bà có nhiều chồng, nhiều con. Ba người con gái của bà được dân Chàm sùng bái là
Ponager Dara, Rarai Anaih và Po Bia Tikuk.
Về thuyết của người
Việt, theo bài bia của cụ Phan Thnh Gỉan dựng vào năm 1856, tại Tháp Bà , Nha
Trang, không dựa vào sử sách mà theo lời các bô lão kể lại khi cụ đi ngang
Khánh Hòa, nơi có nguồn gốc của nữ thần. Bà Thiên Y giáng sinh ở núi Đại An,
làng Đại An tỉnh Khánh Hòa. Bên trong là núi non, bên ngoài là biển cả vây bọc,
một nơi phong cảnh hữu tình. Dưới chân núi có gia đình một đôi vo85 chồng già,
nghèo, cô đơn, sống bằng nghề trồng dưa. Rồi tự dưng những quả dưa chín thường
bị mất cắp, hai vợ chồng bèn rình bắt kẻ gian. Họ lấy làm ngạc nhiên khi bắt gặp
một cô bé hơn mười tuổi, hái trộm dưa chơi đùa dưới ánh trăng thanh. Ông cụ và
bà cụ thấy cô bé dễ thương lại không có cha mẹ nên đem về nuôi và yêu quý như
con đẽ. Một hôm trời lụt, cô gái bộnh nhớ tới quê cũ là nơi Tam Đảo Bồng Lai, lấy
đá xếp thành giả sơn để ngắm cho đỡ nhớ. Không ngờ ông cụ trông thấy liền quở mắng
khiến nàng buồn hơn. Nhân nươc lụt trôi đến một cây kỳ nam, nàng liền biến mình
vào trong khúc gỗ ấy theo dòng nước trôi ra ngoài biển khơi, rồi giạt vào bờ biển
Bắc (Trung Quốc) Dân chúng thấy cây kỳ nam rủ nhau ra vớt lên, nhưng nặng quá
không lôi vào bờ được. Lúc ấy, có một thái tử tuổi đôi mươi đang tìm vợ nhưng
chưa gặp, nghe nói chuyện cây kỳ nam thái tử lấy làm lạ, liền đến bờ biển, thân
hành vớt cây kỳ nam mang về. Rồi một hôm, thái tử thất từ cây kỳ nam xuất hiện
một mỹ nhân nhưng khi đến gần thì lại biến mất. Thái tử tìm cách bắt được mỹ
nhân và không cho nàng nhập vào cây kỳ nam nữa. Hôm sau, thái tử xin vua cha
cho kết hôn với nàng. Hai vợ chồng ăn ở với nhau sinh được một hoàng nam tên
Tri, một cống chúa tên Qúy. Nhưng rồi nàng lại nhớ quê hương Việt nên đem con
đi, biến vào thân cây gỗ trầm cho xuôi về phương Nam, đến chân núi Cù Huỳnh tìm
về nơi quê cũ. Nhưng cảnh vật đã đổi thay, xuân huyên khuất bóng, nàng ở lại, sửa
sang vườn tược, tạo lập cửa nhà để phụng thờ cha mẹ. Nàng còn dạy dân chúng lễ
nghĩa cùng các cách mưu sinh. Để cảm ơn công đức của nàng, dân Chàm tạc tượng,
đặt lên chóp núi để thờ, còn bà thì cưỡi chim, cùng hai con bay về tiên giới.
Thái tử thấy vợ bỏ đi
không về mới sai người dong thuyền đi tìm. Khi đến Khánh Hòa, không tìm thấy
bà, các thủy thủ Trung Hoa nổi giận hống hách với dân làng, tỏ ra thiếu lễ độ với
tượng thần Thiên Y A Na. Để trừng phạt, một trận cuồng phong nổi lên đánh đắm
ghe thuyền của chúng ở cửa biển Đại An.
Từ đó, trên bờ biển
thường thấy nữ thần xuất hiện dđể cứ nhân độ thế. Những người chung quanh vùng,
mỗi khi hoạn nạn thường đến đó cầu xin thảy đều linh nghiệm. Vì thế, họ lập điện
thờ và kính cẩn gọi bà là Thiên Y A Na Diễn Bà Chúa Ngọc Thánh Phi.
Nguồn tham khảo: Bửu Kế - Nguyễn Triều Cố Sự, huyền thoại về
danh lam xứ Huế
Bàn thờ các nữ thần bên cạnh điện chính |
Bàn thờ các nữ thần trong điện chính |
con đường mòn đến điện, ven thượng nguồn sông Hương |
Bàn thờ chính giữa điện |
Môt đoàn du lịch Huế kết hợp thể thao người nước ngoài chạy qua sân điện |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét