Thứ Tư, 30 tháng 4, 2014

Cách Hóa Giải Hận Thù


Có rất nhiều cách hóa giải hận thù. Hận thù làm cho con người tức giận và muốn trả thù. Hận thù làm cho con người mất đi lòng thương yêu, làm con người hao tốn năng lượng kể cả về tinh thần lẫn thể xác. Chính vì nuôi lòng thù hận, sự lo lắng, buồn phiền, sự bất toại nguyện, sự không bằng lòng mà con người dễ bệnh và đánh mất chính mình từ suy nghĩ, lời nói cho đến hành động dẫn đến làm khổ chính mình, làm khổ người và làm khổ muôn loài vạn vật khác.

Cách 1: Quán Nhân Quả:

Quán nhân quả là nhìn mọi việc với đôi mắt nhân quả. Tất cả mọi việc xảy ra đều có nhân của nó. Do chính mình đã gieo nhân hại người, lừa gạt người, dối người mà ngày nay mình lại bị quả có người hại, lừa gạt hay dối mình. Do biết quán xét như vậy, mình biết lỗi của mình cho nên tự hứa không hại người, lừa gạt người hay dối người nữa và biết chấp nhận nhân quả xảy ra hằng ngày, không thù hận ai, chỉ biết tha thứ cho người hại, lừa gạt hay dối mình. Bởi vì chỉ có tha thứ mới chuyển đối được nhân quả, chỉ có tha thứ mới chuyển thù thành bạn, chỉ có tha thứ mới làm cho tâm hồn chúng ta thanh thản, an vui và vô sự, chỉ có tha thứ mới đem lại hạnh phúc thật sự cho cuộc đời này.

Có lúc chúng ta suy nghĩ rằng mình có bao giờ hại, lừa gạt hay dối người đó đâu mà sao mình lại bị người đó hại, lừa gạt hay dối gạt? Thưa không, nhân quả rất công bằng, không phải là mình chưa hại, lừa gạt hay dối người đó. Trong cuộc đời chỉ cần mình đã từng gieo nhân sống không thành thật, dối gạt, hay hại bất kỳ ai thì mình sẽ bị quả có người khác lừa gạt, dối gạt hay hại mình. Chính mỗi lần chúng ta gieo nhân xấu là chính chúng ta đã phát ra môi trường một từ trường ác, chính từ trường ác đó sẽ tương ưng với những người có từ trường ác có tính hãm hại, lừa gạt hay dối người.

Chính từ trường ác của mỗi chúng ta sẽ giao cảm tương ưng với hàng chục hàng trăm người khác để bị quả báo. Do vậy chỉ cần chúng ta gieo một nhân ác thì không phải chúng ta chỉ bị một quả xấu, mà là rất nhiều quả ác. Giống như đối với cây thực vật, khi con người gieo một hạt giống xuống đất, khi hạt giống đó nảy mầm, lớn thành cây, đơm hoa kết trái, cây đó có rất nhiều trái. Một nhân sanh nhiều quả là quy luật của tự nhiên.

Có khi chúng ta nghĩ rằng, đúng là trong cuộc sống có lúc chúng ta chỉ hãm hại, lừa gạt hay dối người một chút nhỏ, không đáng để lo, không ảnh hưởng gì nhưng tại sao chính chúng ta lại bị hãm hại, lừa gạt hay bị lừa dối thảm hại đến như vậy? Cũng giống như hạt và quả của cây thực vật, có hạt và quả nào là đồng lượng đâu, ai cũng muốn khi gieo một hạt nhỏ xuống đất thì có quả to. Quả có khi nặng gắp rất nhiều lần hạt. Nhân quả con người cũng vậy, chỉ cần gieo một nhân nhỏ, chúng ta phải bị chịu trả quả rất nặng nề và thảm khóc.

Do hiểu rõ những đặc tính của nhân quả như vậy, chúng ta hãy chấp nhận nhân quả hiện tại. Hãy luôn thương yêu và tha thứ cho tất cả mọi người làm hại đến ta, không nên giữ lòng thù hận mà lại làm khổ chính mình và người nữa. Chính tha thứ sẽ chuyển quả mọi nhân quả xấu ác thành nhân quả thiện, chính tha thứ sẽ chuyển đổi cuộc đời của con người từ đau khổ thành hạnh phúc.


Cách 2: Quán tâm Từ:

Người quán tâm từ là người luôn sống với lòng thương yêu chân thật giống như một người mẹ thương yêu con cái, dù là con cái phạm tội lỗi gì người mẹ vẫn thương yêu và tha thứ bỏ qua tất cả mọi lỗi lầm của con cái.

Do hiểu rõ cuộc sống của con người phải bôn ba kiếm sống từng chén cơm manh áo, chật vật suốt cả ngày. Người sống với lòng thương yêu chân thật là người không màng danh lợi, buông xả tất cả, đã từ bỏ mọi bản ngã. Do vậy dù ai gây hại gì cho mình, kể cả đánh đập hay giết mình người đó đều thương yêu và tha thứ. Họ không tiếc bỏ một vật gì, không bao giờ coi vật gì là của mình, ai là của mình, không chiếm hữu ai, tôn trọng mọi việc làm của người khác.

Dù cho ai hãm hại, lừa gạt hay lừa dối, người có tâm từ đều thương yêu vì họ nghĩ rằng những người kia đều vì sự sống để lừa gạt, để dối trá, để hạm hại.

Tóm lại người sống với tâm từ có lòng thương yêu rộng lớn, bao phủ tất cả như lòng thương yêu của một người mẹ, không phân biệt thân sơ, không phân biệt loài vật hay người, họ không bao giờ muốn hại ai, phạt ai, kiện ai. Tâm họ chỉ có lòng thương yêu đa hướng rộng lớn. Chính vì vậy mà họ có thể tha thứ cho tất cả mọi ai làm hại đến họ dễ dàng.


Cách 3: Quán tâm Bi:

Quán tâm bi là quán sự đau khổ của người khác để từ đó phát sinh ra lòng thương yêu của chúng ta. Giống như khi chúng ta thấy những người nghèo khổ, chúng ta liền muốn giúp đỡ, bố thí tiền bạc, v.v…Quán tâm bi chính là vậy.

Người hãm hại, lừa gạt hay dối mình là người đã tạo nghiệp xấu, chính vì họ tạo nghiệp ác thì họ sẽ phải chịu hàng chục, hàng trăm quả báo xấu và nặng gắp chục trăm lần những gì họ đã gây cho người khác. Khi tư duy đến đây chúng ta sẽ thấy rõ những sự đau khổ của họ trong tương lai mà thương yêu họ.

Đồng thời chúng ta cũng phải biết thương yêu chúng ta nữa. Bởi vì khi chúng ta bị hại, bị lừa gạt hay bị lừa dối, chúng ta nghĩ đến trả thù là chúng ta đã tự gieo thêm nhân xấu cho chính mình, chính vì lại gieo thêm nhân xấu thì phải bị gặt những quả xấu trong tương lại, khiến cho cuộc đời của chúng ta hết đau khổ này chồng lên những đau khổ khác.

Khi chúng ta trả thù thì người khác lại tìm cách hãm hại mình nữa, oan oan tương báo lúc nào mới chấm dứt, nhân quả ác chồng chất lên, chưa trả hết cái này lại bị cái khác chồng lên biết chừng nào mới trả xong hết những nghiệp ác cũ.

Hiểu rõ như vậy thì chúng ta hãy chấm dứt gieo những nhân hận thù, đó là cách giúp chúng ta tạo cuộc sống an vui, là cách giúp cho người khác không tạo thêm nhân quả ác nữa. Đó là cách quán tâm bi, đó là cách biết sống thương yêu chính mình và thương yêu người.


Cách 4: Quán tâm Hỷ:

Sau khi quán được tâm từ và tâm bi thì đến hỷ là vui vẻ không còn hận thù nữa thì mới gọi là quán hỷ. Nếu chưa thể vui vẻ được thì quán từ bi chưa xong.


Cách 5: Quán tâm Xả:

Khi tâm không còn nghĩ đến giận hờn hay thù hận ai nữa một cách thanh thản thì đã biết rằng đã buông xả tất cả. Người sống với tâm xả luôn chấp nhận tất cả mọi việc đến với tâm diệt ngã, buông xả, luôn nghĩ mọi người là người tốt, người thiện người lành. Không bao giờ nghi ngờ ai, nghĩ xấu về ai. Luôn tin tưởng mọi người. Dù ai hại mình họ đều nghĩ người đó đều đang giúp mình, đang thương yêu mình, đang tạo điều kiện tốt cho mình.


Cách 6: Chỉ nhìn lỗi mình, không nhìn lỗi người.

Người biết nhìn lỗi mình là người biết quán nhân quả, lỗi do mình đã tạo nhân xấu trong quá khứ cho nên ngày nay bị người khác hãm hại, lừa gạt hay dối trá với mình.
Chỉ cần luôn thấy lỗi mình thì sẽ luôn thương yêu và tha thứ cho người hại mình.


Cách 7: Quán vô thường:

Là cách quán mọi việc trên đời này đều bất biến, không cố định, luôn thay đổi. Gọi là quán vô thường.

Dù ai làm hại mình, dối gạt mình hay lừa gạt mình thì sau này người đó cũng thay đổi, trở nên người tốt, người thiện. Do vậy hãy thương yêu và tha thứ cho mọi người, đừng giữ trong lòng những điều xấu về họ nữa.

Ai nhìn đời bằng con mắt nhân quả hay duyên hợp thì sẽ hiểu rõ mọi pháp đều vô thường. Khi tâm thực sự thấm nhuần lý vô thường này thì tâm sẽ luôn bất động thanh thản an lạc và vô sự.

Tóm lại, có rất nhiều phương pháp để có thể sống trong thương yêu và tha thứ, mỗi người trong cuộc sống sẽ tự chọn cho mình một hoặc vài phương pháp thích hợp tùy hoàn cảnh, tâm trạng của mình. Miễn sao phương pháp đó giúp cho chính người đó không sống trong thù hận, sân giận hay ghen tức. Những cách trên là những cách hợp với tác giả bài viết. Mong rằng tất cả bạn đọc chia sẻ những phương pháp riêng của chính các bạn để tác gia được học hỏi thêm, nhằm giúp cho cuộc đời này thêm nhiều niềm vui và hạnh phúc, loại bỏ mọi thù hận, tức giận và ganh ghét.

(Sưu Tầm)

Hai mặt

Thích Tánh Tuệ
 
 
 
SỰ THẬT có 6 chữ
GIẢ DỐI cũng 6 luôn
Mặt trái và mặt phải
Trắng đen ôi khó lường!

TÌNH YÊU có 7 chữ
PHẢN BỘI cũng thế thôi
Chúng là hình với bóng
Rất dễ dàng đổi ngôi.

Chữ YÊU là 3 chữ
HẬN là ba, giống nhau.
Người say men Hạnh phúc
Kẻ thành Lý Mạc Sầu.

BẠN BÈ có 5 chữ
KẺ THÙ đếm cũng năm
Hôm nao lời ngọt mật
Hôm nay chìa... dao găm.

Từ VUI có 3 chữ
Tiếng SẦU cũng đồng như.
Quá vui thường mất trí,
Mất trí đời đổ hư.

Chữ KHÓC có 4 chữ
CƯỜI cũng vậy, giống in
Ai ''giòn cười, tươi khóc ''
Ấy cảm thọ nhận chìm.

Cuộc sống là hai mặt
Giới tuyến một đường tơ
Chấp nhận mà không vướng
Nhẹ bước qua hai bờ.

Thứ Ba, 29 tháng 4, 2014

BÀ TÔI

Tường Vi

Tết Hà Nội xưa
Tôi có một người bà, cả gia đình năm anh em chúng tôi sống với bà từ lúc mới chào đời, chưa bao giờ rời xa. Tôi là con út trong nhà, nên lúc tôi chào đời thì bà tôi đã lớn tuổi rồi, không được như hồi anh chị tôi được bà cõng trên lưng từ trường về nữa...
Bà tôi là người vùng quê miền Bắc chính cống, bà thuộc nằm lòng những câu ví von nói như hát, đọc như thơ, nghe vui tai mà cũng thâm thúy vô cùng. Năm bà mới mười hai mười ba tuổi, bà đã về làm dâu nhà ông ngoại. Ông tôi mất cha từ lúc còn nằm trong bụng mẹ, nghe mẹ tôi kể là ông cố làm chức sắc trong làng, đi coi đê ngày bão về phải lạnh mà mất. Nhà cửa đơn côi một mẹ một con nương tựa nhau mà sống, qua lời kể lúc nào cũng tràn ngập tự hào của mẹ tôi thì ông tôi là người vô cùng tài giỏi, cực kỳ tài giỏi, chỉ ngặt nỗi, ông mất sớm quá, để lại cho tôi một niềm thương nhớ không bao giờ nguôi ngoai, chưa một lần gặp mặt.
Bà và ông, hai người trẻ dắt tay nhau vượt hàng ngàn km từ kinh đô ngàn năm vào lập nghiệp nơi xứ lạ quê người, cuối cùng đất không bạc đãi người đổ mồ hôi với nó, như cây rừng bén rễ, sinh sôi, nảy nở, tồn tại và phát triển, tôi thậm chí đã coi như mảnh đất Đông Nam Bộ này là quê hương của mình.

Tôi vẫn còn nhớ năm nào tôi chỉ là con bé con độ 3, 4 tuổi mới ngủ trưa dậy, tôi đã chạy ra ngoài cửa hàng nơi bà ngồi bán dăm rổ nhang mà ôm lấy cổ bà từ phía sau, thủ thỉ bên tai bà vòi vĩnh một món đồ chơi, và bà đã dắt tôi qua cách 1 căn mà mua cho tôi con búp bê đầu tiên trong cuộc đời tôi. Tiếc thay tôi không còn giữ nó, nhưng trong lòng tôi thì luôn nhớ rõ hình ảnh nó, và có lẽ không bao giờ quên.

Từ lúc tôi có trí nhớ, thì nhà tôi ở trong một khu chợ nhỏ, đã buôn bán được vài năm rồi. Bà tôi dù lớn tuổi nhưng vẫn bán dăm bó nhang, vài tờ giấy tiền kiếm đồng ra đồng vào. Bố mẹ tôi bán kim chỉ và tất tần tật các thứ nhỏ nhỏ dùng để may nên quần áo.
Theo thời gian mẹ tôi còn bán thêm nhiều thứ lặt vặt khác nữa, nhưng đều không hợp, cuối cùng thì tới giờ chỉ còn bán kim chỉ đơn giản nhưng với sự giảm bớt tới tối đa. Cái sự phức tạp của thị trường phụ liệu may mặc thì thật là vô biên, không thể tưởng tượng được mà cũng không đu theo được, nó đại loại như một trào lưu mà khi bạn chưa kịp làm quen hoặc vừa mới quen với nó thì nó đã cũ rồi. Người ta gọi đó là lỗi mốt! Ngày hôm nay đỏ tươi là màu thịnh hành, ngày mai thì nó đã quê mùa. Hôm nay bạn mặc áo bà ba là chân đất lấm phèn, thì ngày mai áo bà ba đi cùng giày cao gót vào những hotel 5 star. Vậy nên chả bền được!
Còn cửa hàng của bà thì lại khác, cứ chậm rãi khoan thai, từ từ tới lúc này, người ta đến mua như một thói quen, gặp bà như một vị quân sư về các thể loại cúng, và thấy bà khỏe mạnh như một điều phúc lành.

Nhà tôi có 2 mùa trọng đại, đó là tháng bảy và tết gắn với cửa hàng của bà.

Tháng bảy nói vui là tháng cúng cô hồn, nhưng nói nghiêm túc là lễ lớn của người Việt xưa, cúng kiếng tưởng nhớ tổ tiên ông bà, báo hiếu và ghi nhớ công đức các đấng sinh thành, cũng là lễ cho sự tha thứ xá tội vong nhân.
Trong tháng này, mọi người ai cũng lo mua giấy áo tiền vàng cúng, nhà nhà đốt tiền vàng mã. "Dùng tiền thật mua tiền giả, đốt thành tro, thật là phí phạm." Nhiều người nghĩ vậy đấy, tôi không có ý kiến cũng chẳng phản đối, tùy niềm tin và quan niệm mỗi người thôi...mà niềm tin thì bạn không thể nào làm khác được.
Nhà tôi tháng này rất bận rộn, dòng người đến tay không rồi khi đi ai cũng khệ nệ bị to bị nhỏ. Tôi có thể gặp những người mẹ rụt rè mắt đỏ hoe mua vài bộ quần áo giấy cho những đứa trẻ đỏ hỏn trong bụng mà không ra đời. Có những lúc sống lưng tôi ớn lạnh, sau gáy tóc tai dựng đứng khi đứng trước một cô mua đồ cho cả thảy năm đứa trẻ có rồi lại mất. Hay những cặp vợ chồng trung niên đưa danh sách tới vài chục người từ ông bà cụ kỵ tới chú bác cô dì, các ông bác cứ vét hết các túi mua cho "ông bà xài thoải mái thì thôi" tới nỗi các bà vợ tiếc tiền mà thở dài mà chặc lưỡi "tốn kém quá!" là sẽ nhận được sự không hài lòng của ông chồng "tui mua cho ông bà tui mà bà nói gì kỳ vậy?" cho tới "ơ hay, ông tát cho vỡ mồm giờ!". Cho tới những người thu nhập hàng năm lên tới tiền tỷ, chạy xe bóng lộn, quần áo bóng lưỡng, mua mỹ phẩm cả ngàn đô, đi spa, nước ngoài như đi chợ, mà mua đồ cúng trả giá tới nơi, thêm cái nọ, bớt cái kia, suy đi tính lại sao cho chỉ trên dưới chưa tới trăm ngàn.
Tôi biết tấm lòng mỗi người không đo bằng tiền, giá trị con người không đo bằng một thứ thái độ cỏn con phiến diện, nhưng tôi vẫn cứ thích lưu tâm những mảnh kính ghép nho nhỏ đó.

Để chuẩn bị hàng bán cho dịp tháng bảy, thường bà phải chuẩn bị ngay từ những ngày đầu của tháng 3 hoặc tháng 4 hàng năm. Thời gian này tôi luôn thấy bà tôi ngồi trên ghế, kế bên chiếc đi văng gỗ cũ kỹ trên mặt trải đầy các loại giấy tiền để xếp mỗi thứ một ít cột lại thành một xấp coi như là một lễ cho một loại cúng.
Ngày ấy, để ra được một xấp tiền cúng ông bà trị giá 1000 hoặc 2000 đồng, cũng lắm công phu, phải đếm 10 tờ tiền âm phủ, lấy 1 tờ kẹp lại, rồi 1 đinh bạc đại, 1 miếng vàng lá, 2 lá tiền vàng, 2 lá tiền trắng, kẹp giữa là 1 ít bạc cá, 10 tờ bạc bắc 5 trắng 5 vàng, 10 tờ tiền chuỗi, cột tất cả lại với nhau. Ha ha, tùm lum vậy đấy, mới được 1 phần. Thế mà bà tôi ngồi xếp say mê từ sáng tới chiều tối, thùng nọ tới thùng kia chất lên nhau, vừa làm vừa nhẩm tính xem nếu bán hết đống này, trừ vốn sẽ lời được bao nhiêu và hân hoan với điều đó.
Niềm vui của anh em chúng tôi hồi bé là học bài xong sẽ ngồi làm phụ chung với bà, nếu còn nhỏ quá thì chỉ được làm 1 phân đoạn nhỏ như đếm 10 tờ tiền xếp ngang dọc, tới chừng nào mà được ngồi làm hẳn ra thành phẩm, thì coi như là đã lớn rồi đó, tự hào lắm đó.
Tuổi thơ của tôi trôi theo những mảnh giấy màu vàng in các đồng tiền xu cột thành chuỗi mà các cụ ngày xưa hay giắt ở bụng, cột ở lưng quần, theo những màu xanh xanh đỏ đỏ của cọc tiền âm phủ in hình ông diêm vương với số sê ri trăm tờ như một cũng chính là số điện thoại của ông chủ sản xuất, theo những bụi cám, bột giấy ngứa ngáy của những chồng bạc cá như giấy súc loại cứng 4 cạnh quết màu đỏ, hàng đầu là hình con cá vàng dễ thương mà tôi nhặt lại để có cả hẳn một bộ sưu tập hàng trăm tờ...và hình ảnh bà tôi còng lưng ngồi tỉ mẩn làm cái công việc tủn mủn ấy mà xếp nên cuộc sống no đủ hàng ngày cho lũ cháu chúng tôi, xây đắp tương lai tôi như bây giờ.

Tết thì đông vui cả chợ chứ không riêng mình nhà tôi. Tôi lúc nào cũng thích Tết nhất trong khoảng thời gian của năm. Tôi cứ mải miết chả để ý thời gian trôi, nhưng chỉ cần một hôm bố tôi vẫy tay gọi tôi vào một ngày trưa, chỉ cho tôi ánh nắng vàng rượm, óng ánh đang trải khắp con đường trước nhà, thì tôi biết là Tết sắp đến rồi.

Tết năm nào cũng thế, chừng 20 âm lịch trở đi, là nhà tôi bận kinh khủng, bố mẹ tôi tới mốc này thường nghỉ hàng đồ may để bán phụ cho bà. Bà tôi là nhân vật chính, trung tâm, là đại bàng, là đạo diễn, là quân sư Gia Cát Lượng. Bà được mọi khách hàng tìm kiếm, vây kín để hỏi han cách cúng mà năm nào họ cũng làm có vậy mà không hề nhớ được. Bà chỉ đâu là khách hàng đánh đó, bảo sao nghe vậy, nói gì làm thế, năm nào cũng phải ra kiếm bà tôi để hỏi lại. Tôi dù chỉ mới là cô bé con có 6,7 tuổi, thế mà đã thuộc bài như cháo chảy, cũng mon men ra bán nhưng chả ai thèm tin dù tôi lặp lại y chang những gì bà tôi nói.
Những ngày giáp tết, anh chị tôi trong năm có đi đâu thì đi đều trở về, vì vậy mà nhà đông đủ, xôm tụ hẳn. Chúng tôi chia nhau ra làm các vị trí có hệ thống trật tự đàng hoàng, anh cả tôi ngồi thối tiền cho khách vì chả biết làm gì khác, anh hai tôi ngồi làm giấy cúng đất đai và giao thừa vì cháy hàng, anh ba tôi thì nhận làm giấy cúng ông bà, chị tôi và tôi bán hàng.
Tôi ứ thích bán hàng vì phải nói nhiều lắm, lại mệt vì đứng và đi lại liên tục, còn mấy anh tôi ngồi vừa làm vừa bật nhạc xuân nghe hay mở film video mướn coi, quạt mát ngay vào người. Thế nên tôi cứ xí phần của anh ba tôi để được coi film, vậy là ngồi chưa nóng chỗ đã bị gọi réo rắt ra ngoài. Tôi khi đó chưa hiểu được tầm quan trọng của đồng tiền kiếm được những ngày cuối năm, quý giá đến ngần nào nên cũng lửng lơ vô chừng, sáng mẹ tôi gọi mãi, gắt gỏng tôi mới dậy xuống nhà phụ.
Người lớn trong nhà thì khác, bà tôi sáng dậy rất sớm, dọn hàng cùng với bố tôi, ngồi ngay ngắn chính giữa từ khi mở cửa tới khi đóng cửa vào nhà, luôn tay luôn chân, khi thì giục chúng tôi vào nhà mang đồ ra để bà tận tay châm thêm hàng vào rổ, lúc lại mắng chúng tôi làm việc chậm chạp, cẩu thả, thậm chí cáu tiết lên là không thèm sai nữa mà tự vào nhà lấy, vừa dỗi vừa đi vừa lẩm bẩm "Con cháu sáu kẻ cướp".
Bà luôn là người nói nhều nhất, làm việc nhiều nhất, cố gắng nhiều nhất, ráng sức nhiều nhất, và cũng thấm mệt nhiều nhất. Tối đến khi bà nằm trên giường, hai chân bà xuống máu phù ra do ngồi nhiều, bà phải gác hẳn lên những thanh ngang của giường tầng phía trên hẳn một lúc lâu mới đỡ, và khi bà ngủ, tiếng thở mệt mỏi khó nhọc cứ vang lên. Vậy mà mọi người nói bà vào nghỉ ngơi thì bà vẫn không chịu, bởi vì bà biết bà quan trọng, và thường tới 25 âm lịch thì giọng nói của bà khàn hẳn do phải nói quá nhiều.
Bà nỗ lực kiếm tiền là thế, nhưng hầu như tất cả bà có được, bà đều cho lại con cháu trong nhà, tới từng này tuổi tôi chưa bao giờ thấy bà tôi từ chối bất cứ một sự giúp đỡ nào, bà luôn nắm lấy những cánh tay khoắc khoải không chỗ bấu víu. Có lẽ với bà tôi, niềm hạnh phúc của bà là sự cho đi...
Tới sát ngày 30 cả khu phố nhà tôi mới bắt tay vào dọn dẹp nhà cửa cho năm mới, thường là từ sau giờ trưa, khi chợ Tết bắt đầu vãn, nhà nhà đã hoàn tất việc cúng kiếng đón ông bà ông vải về ăn Tết hết rồi, thậm chí có năm cả nhà mệt quá hoặc khách khứa còn mua lai rai tới chiều, thì có khi tới 6h tối mới bắt đầu.
Anh cả tôi sẽ đi quét mạng nhện khắp nhà đầu tiên, rồi anh em chúng tôi từ từ dọn dẹp quét tước từ trong kho ra tới ngoài cửa. Vì chạy đua với thời gian, nguyên tắc sống còn là gọn gàng ngăn nắp nên cái nào che đậy là che, cái nào khuất mắt được là khuất mắt, mọi thứ lộn xộn được cho lên kệ, hàng hóa được đóng thùng, bỏ bao vào kho và lên gác tất và cái nào vất được là vất ráo, thường khi ra tới cửa là 3, 4 cây chổi tiễn rác bỏ đi thành 1 đống lớn cả mấy bao tải. Năm nào trời thương đắt hàng thì nhà cửa còn quang đãng, nếu không thì cũng chỉ tươm tất hơn so với bình thường một chút. Anh cả tôi chỉ chờ nhà quét xong là sẽ cầm cây lau và nước thơm đẩy hết đống bụi trần tích góp trên sàn nhà gạch màu xanh lá xưa cổ, lau bao nhiêu nước cũng chỉ chung thủy ra một màu xám ngoét tới đen tuyền. Dù vậy, cái nền gạch cũ kỹ nhà tôi mùa hè đi chân trần vẫn thấy mát, mùa đông thì không lạnh lẽo, lại không bị trơn trợt, sau khi lau xong rất lâu vẫn cảm giác hơi nước bốc lên mát rượi dễ chịu vô cùng…Trong lúc đó, anh hai tôi cùng bố sẽ dọn bàn thờ ông bà, dán một tấm giấy đỏ có chấm nhũ tròn vàng mới cáu thay cho tờ cũ trên mặt, chưng lại bộ lư đồng đã đem gửi đánh bóng sáng choang trước đó nửa tháng. Tất cả hình ảnh, kỷ vật chiếc nón của ông ngoại hay đống vàng trăm vàng nghìn để thờ làm của ăn của để và cái bàn thờ bằng gỗ lim hay mun đen gì đó đều được lau chùi sạch thiệt sạch và bày biện trang hoàng cùng mâm ngũ quả.
Tôi thường được nhận nhiệm vụ lau bàn thờ ông Địa Thần Tài và ông Táo. Cách đây đã lâu rồi tượng ông Thổ Địa bị người ta lấy cắp, rồi sau đó tới tượng ông Thần Tài bị nứt, cứ mỗi lần thay như vậy, cuối cùng hóa ra tượng hai ông theo như bà vẫn gọi là “cọc cạch”. Ông Địa to đùng, ông Thần Tài bình thường cùng cỡ đã mi nhon rồi, nay lại còn size nhỏ hơn nữa, nhìn có chút không tương xứng đẹp mắt, nhưng tôi vẫn luôn cảm giác là hai ông vẫn vui và thoải mái như bình thường. Theo phong tục ngày xưa, người VN thờ ông Thổ Công nhà trên và nhà dưới, ông nhà trên hay gọi tắt là ông Công sẽ có bàn thờ đặt thờ cao hơn bàn thờ gia tiên, ông nhà dưới chính là ông Táo, bàn thờ phải đặt ngay phía trên bếp chỗ đun nấu. Ngày nay người miền Nam thờ ông Địa ông Tài nhiều là do bắt chước theo người Hoa, mang ý nghĩa cầu tài lộc buôn bán thịnh vượng phát đạt nhiều hơn, nhưng khi cúng đám giỗ hay bất cứ một việc gì đó trong nhà, vẫn cần một mâm cúng đất đai Thổ Công ở giữa căn nhà hay trước cửa nhưng không đặt qua cửa. Ông Táo quanh năm suốt tháng quẩn quanh nơi nhà sau, lại bị hơ lửa đun bếp nóng suốt ngày, được đi chơi vắng nhà bảy ngày, tới giao thừa mới về, thế mà có năm qua cả giao thừa rồi tôi vẫn còn đang loay hoay lau rửa bàn thờ ông Địa Thần Tài, chưa xong mà lo tới nhà của ông, thiệt là tội lỗi. Mẹ tôi vẫn kể có một năm đã cận Tết, tôi còn chưa ra đời, bố mẹ tôi đi thu tiền hàng nhưng không có đồng nào trở về, mẹ tôi ngồi trên lan can tầng lầu thuê, nhìn dòng người tấp nập bên dưới, có tiếng nhạc vọng lại từ đâu đó “Năm nay anh không thèm chơi đánh bài, vì anh đã có em…” mà xót xa cho anh chị tôi không có manh áo mới ngày xuân, tới ngày 23 tháng chạp, chợ khuya người vắng mẹ tôi mới lủi thủi ra đường vơ một ít thèo lèo ế về cúng đưa ông Táo về trời. Mang tiếng nhà bán đồ cúng chứ có năm bên ngoài lo bán đồ cho người ta cúng đưa ông Táo đi mà quên bẵng ông Táo nhà mình, lúc nhớ ra thì đã 25 rồi, lo sốt vó lên không biết ông có đi ké ông Táo nhà hàng xóm gần đấy lên chầu Ngọc Hoàng được hay không. Từ bận quên đó, mẹ tôi rút kinh nghiệm cứ mới 12h sáng ngày 23 là cúng tiễn ông đi sớm luôn cho chắc ăn, khỏi sợ kẹt xe. Nói chung ông Táo nhà tôi nghĩ cũng thật là thảm, vậy mà năm nào ông cũng thương mà phù hộ cho nhà chúng tôi gạo không bao giờ thiếu, chưa bao giờ không có cơm mà ăn. Cũng có khi tôi tự hỏi, những bức tượng lạ lẫm tươi cười đó, những bài vị tưởng như lạnh lẽo đó, những chữ Hoa không đọc không hiểu được đó, trong suy nghĩ tôi tại sao lại có thể sống động đến như thế, có hồn đến như vậy, có hay chăng những vị thần thánh đó vẫn đang dõi theo, quan sát và phù hộ con người? Dù chưa một lần được nghe, được nhìn thấy, sờ tận tay chứng mình sự tồn tại có thật của họ nhưng tại sao chúng ta vẫn có một niềm tin kiên định, kính trọng vô ngần, lễ nghĩa vẹn toàn. Âu, điều đó thuộc về tinh thần, và bản thân tôi dù là một người có niềm tin mạnh mẽ vào khoa học vẫn rất tin vào sự tồn tại đó, có chăng mỗi người tự trải nghiệm sự tin tưởng đó theo cái cách của riêng mình. Nhà buôn bán món hàng lời to, kẻ mọt đề trúng lô lớn, sinh viên thi quơ quàng mà đậu, tất cả đều nghĩ tới mua nải chuối cúng ông Địa còn gì.
Đối với tôi, Tết có cái hương vị rất riêng, rất khác ngày thường. Bình thường cho tôi chọn dậy sớm và nướng thêm một chút thì tôi thà chọn cháy khét luôn cũng được. Vậy mà chỉ cần vài tia nắng vàng rơi trên cửa sổ, không gian yên tĩnh không có một chút tiếng xe cộ qua lại hay bán buôn hàng ngày, thậm chí màn cửa lay động cũng có thể nghe được thì chỉ có một thời điểm duy nhất đó trong năm thôi và tôi không thể tiếp tục nằm trên giường được nữa. Tôi vẫn nhớ hoài những ngày Tết xưa cũ, sáng mùng một Tết tiếng pháo đì đùng vang khắp xóm hòa lẫn với tiếng nói cười vỗ tay vui vẻ, ngập tràn trong không khí là mùi hăng nồng của thuốc pháo nhưng không hề khó chịu. Từ nhà tôi đứng nhìn dọc theo con đường nhỏ của chợ kéo suốt lên ngôi nhà thờ trên đỉnh đồi trải đầy một màu đỏ của xác pháo nổi bật trên nền cái màu nắng tươi rói ngày đầu năm, và chỉ cần một cơn gió thoảng chợt ghé ngang đưa đẩy những mảnh xác pháo bay lượn chấp chới trong không gian là sẽ khiến tâm hồn trẻ thơ của tôi rung động ngẩn ngơ đứng ngắm nghía mãi thôi. Tết là được thỏa thích thưởng thức dưa hấu, bánh chưng chiên, thịt kho tàu và vô số bánh trái kẹo mứt ngày Tết mà ngày thường có muốn cũng không có mà ăn. Tết là được lĩnh tiền lì xì mệt nghỉ, cái cảm giác tự dưng được có trong tay một số tiền lớn thật là lớn trong cuộc đời mình lúc nào cũng khiến đứa con nít phấn khởi vui vẻ không ngừng, vậy mà cứ qua tháng giêng là số tiền đó lại được mẹ tôi thủ thỉ dụ dỗ mà lấy hết lúc nào không hay. Tết với mọi người mọi nhà là kỳ nghỉ, là lúc tất cả mọi người trong gia đình hội họp, ăn chơi, là bắt đầu một năm mới đầy sức sống thì với nhà tôi là thời gian để những cơ thể mệt nhoài sau một năm chinh chiến nằm dài trên giường hoặc là ngủ nghỉ hoặc là tận hưởng những bộ film lê thê trong năm không đào đâu ra thời gian ngồi thảnh thơi mà theo dõi và cũng không được bố tôi cho coi vì lúc đấy anh chị em tôi phải tập trung vào học tập. Những năm 92 – 2000 thì film TVB là số một, cứ mướn vài bộ mỗi bộ dài chừng 20- 30 cuốn băng mấy anh chị em tôi cứ ngồi mê man coi tới hết Tết thì thôi. Bây giờ thì chương trình tivi nhan nhản ra đấy, trên mạng cũng đầy rẫy, muốn coi gì có đó, không còn cái cảm giác chờ mong cả năm để coi film cho thật đã, thật sướng, không bị kiểm soát, không bị bố mẹ mắng, không bị headline công việc đè, quả thật là Tết bây giờ giảm sút vui vẻ đi rất nhiều chỉ vì cái khoản coi film.

Mẹ tôi kết hôn khi tuổi còn trẻ, tự bươn chải tự nuôi sống bản thân còn khó, huống chi là phải nuôi mấy anh chị tôi. Bố tôi là người miền Tây chân chất, tốt nghiệp đại học rồi đi làm nhưng không chấp nhận hòa nhập với cái xấu xa của xã hội thu nhỏ chốn quan trường thượng đội hạ đạp, bòn rút của công, cướp công ăn phần nên phải nghỉ ở nhà làm nghề, chỉ vừa đủ miếng cơm hàng ngày. Mẹ tôi kể trước nhà hồi đó là tiệm tạp hóa nhỏ, trên đầu tủ là vài hũ bánh kẹo, anh cả tôi đứng bần thần ở trong hàng rào bên đây nhà, nhìn sang đó ngắm nghía buồn rầu thèm thuồng theo từng đứa trẻ con trong xóm đến mua kẹo ăn, mà nếu anh tôi có xin thì mẹ tôi cũng không có tiền để mua. Mẹ tôi thường nói, cuộc đời mẹ tôi đã trải qua không ít thăng trầm, có khi xuống tới đáy vực, nhưng nhờ có bà tôi lúc nào cũng bên cạnh mà mẹ tôi luôn vững bước, không bao giờ quỵ ngã. Tôi còn trẻ nên chỉ qua lời kể của mẹ vẫn không hiểu rõ lắm, nhưng tôi luôn nhớ cái đêm định mệnh ngày bố tôi mất, bà tôi ngồi thẫn thờ ngoài phòng bố tôi, hai tay ôm cây gậy chống, mắt đỏ hoe nước mắt ngắn dài, rồi chầm chậm đứng lên lê từng bước vào ngồi cạnh bố tôi. Ngày bố tôi động quan, bà tôi theo nghi thức phải đánh mạnh lên quan tài bố 3 cái vì tội bất hiếu để người đầu bạc phải tiễn kẻ đầu xanh, bà tôi chỉ vụt được cái đầu là đã òa khóc, đứng không vững phải có người đỡ. Mẹ tôi là người rất mạnh mẽ nhưng sau sự ra đi của bố tôi đã trở nên trống rỗng, chán nản, buông xuôi. Mẹ đi chùa tìm sự thanh thản, đọc kinh sám hối cầu siêu cho bố, giao hẳn việc buôn bán cho dì tôi, không chút thiết tha với cuộc sống. Lúc này, bà tôi như vị thuyền trưởng già nua nhưng cứng rắn, rành rõi, bà một tay lèo lái, ổn định cửa hàng buôn bán trở lại, một bên làm chỗ dựa cho mẹ tôi, an ủi, động viên mẹ tôi phải biết vượt lên nỗi đau, nhờ vậy mà mẹ tôi thoát khỏi ám ảnh, chấp nhận và thông suốt, thậm chí là vui vẻ trở lại, làm anh chị em tôi ai cũng mừng rỡ, an lòng hết biết. Chứ thấy mẹ gầy xọp đi, hốc hác, đờ đẫn như vậy chả anh chị tôi chả còn lòng dạ nào mà làm ăn gì nữa. Và tôi đã chứng kiến được thế nào là sự kiên cường, rắn rỏi, mạnh mẽ, lạc quan của người phụ nữ trong một bà lão đã trên 70 tuổi…

Bà bị tiểu đường đã lâu, tới bây giờ là ngót nghét gần 15 năm. Những người mẹ, người bà Việt Nam luôn có thói quen nhịn ăn nhịn mặc để dành cho con, cho cháu mình, họ cứ nghĩ tới khi con cháu lớn, trưởng thành, thì họ sẽ lại tận hưởng. Tới lúc có tuổi, qua cơn bĩ cực, bệnh này bệnh nọ liền tới, thế là khỏi ăn uống gì nữa, cứ thực đơn ăn kiêng mà áp dụng đến là khổ. Bà tôi cũng không nằm ngoài quy luật đó. Mặc dù bà rất dễ ăn, thậm chí ăn cơm trắng với chuối xanh cũng qua bữa, thế nhưng để giữ đường huyết ổn định, không bị biến chứng, sống khỏe mà vui vầy với con cháu, bà chỉ quanh quẩn bên những món ăn nhàm chán, có rất nhiều thứ ngon lành không ăn được nữa. Nhiều khi trong nhà có gì đó ngon ngon mà ngọt ngọt, thấy bà lặng lẽ bẻ ăn vài miếng có vẻ thích lắm mà không được ăn hết, tôi luôn cảm thấy thương người bà tuổi đã cao của mình…

Bà tôi ngày trước luôn bỏm bẻm nhai trầu, miệng đỏ thắm, răng hơi đen. Cách vài ba ngày, là bà lại sai tôi ra chợ mua cho bà 2 ngàn lá trầu, mấy ngàn cau non, một ít thuốc lào, khi thì một lạng vỏ màu cam mà tôi thỉnh thoảng trên đường về vẫn moi ra 1 mẩu để ngậm có vị ngòn ngọt. Bà có một khay đựng trầu cau, với một bình vôi đỏ hồng mà lâu lâu khi đang bổ cau nhìn vào thấy khô khô lại sai tôi vào rót chút nước cho chảy mềm ra để quệt một chút lên lá trầu quấn lại cho vào miệng. Hồi đó tôi không thích cũng không ghét bà ăn trầu, chỉ cảm thấy bà có một cái bình nhổ hơi mất vệ sinh, một ngày là bà nhổ vào đấy đầy một bình nước màu đo đỏ, nhoe nhoét. Từ lúc mà bà ăn trầu bị lên huyết áp, bà phải cai trầu, cái khay trầu bị xếp xó cầu thang cho bà khỏi nhìn thấy lại thèm, tôi đi chợ không còn rẽ vào cái ngõ có hàng bà bán trầu cau nữa, cũng không nhìn thấy cái bình nhôm ở chân ghế bà ngồi, có đôi khi tôi lại thấy nhớ cái mùi thơm của lá trầu khi gập lại, của mùi cau quyến luyến vừa bổ ra hơi chan chát, của mùi đượm nồng rất riêng của trầu cau vôi lá thuốc hòa quyện với nhau khi ngồi gần bà đang ăn trầu, và tôi vẫn nhớ hình ảnh bà tôi ngồi chân gác lên ghế, khay trầu đặt trên đùi, chuẩn bị cho thú vui xa xưa của người Việt Nam bao đời nay. Mỗi lần nhớ như thế, tôi lại ước gì, giá mà ăn trầu cũng chả ảnh hưởng gì như uống nước lọc, để bà tôi vẫn được vui vẻ bỏm bẻm nhai trầu.

Bình thường tôi với bà tôi trái ngược về tính cách lắm, tôi là người thích sự tĩnh lặng, thích trầm mặc, thích cái cảm giác đứng ngoài quan sát mọi việc hơn là tự mình tham gia, bà tôi thì khác hoàn toàn, thích sự náo nhiệt, thích nhà cửa đông vui, thích quan tâm chăm sóc tới con cháu trong nhà.
Lúc trước nhà đông người thì không sao, nhưng bây giờ còn có mình tôi là quấn quýt với bà, thành ra tôi thành đối tượng cho bà quan tâm. Ban đầu đối với tôi nếu được quan tâm mà không phải theo cái cách mà mình mong muốn thì mệt mỏi lắm.
Chẳng hạn tôi có thói quen để đồ ở đâu đó trong nhà, có thể là tiện tay để nhưng lần sau tôi sẽ nhớ mà tới đó lấy, thì nó đã không còn ở đó vì bà tôi đã cất hộ rồi, thế là tôi lại phải đi hỏi bà chỗ lấy. Một hai lần thì không sao, nhưng lần nào cũng thế thành ra tôi chán luôn, không thèm nhớ đồ đã để đâu nữa, thì lúc này bà tôi sau nhiều lần tôi cằn nhằn cũng đã chán không thèm cất đồ hộ nữa, và cuối cùng tôi phải lục tung nhà đi kiếm.
Hoặc là bà tôi lúc nào cũng có tác phong công nghiệp, bà ăn cơm trước, ăn cơm xong xuống bếp là phải rửa chén liền, tôi cứ trách bà rửa làm gì. Bà tay chân yếu, lại tiết kiệm nước nên rửa cũng chẳng sạch mỡ được, mà rửa xong lại mệt lên than thở, hoặc giả nói dại rửa nước văng lại trơn trượt té ngã thì khổ, mà tôi cũng vẫn phải rửa lại lần nữa. Thế là bà tôi nghĩ rằng tôi chê bà già rồi vô tích sự, lại buồn, còn tôi thì thẳng tính chẳng nhũn nhặn gì cả cũng cảm thấy ái ngại.
Hay là bà tôi hay ngồi tỉ tê kể lể bàn luận nhiều chuyện trên trời dưới đất, chuyện hàng xóm bà hai bà năm bà bảy, mà tôi thì hay đâm xuồng bể vì không thích nói chuyện mà mình không biết rõ cũng như không thích tò mò chuyện người khác, và bà tôi tổn thương lắm vì cho là tôi không thương bà, không thích nói chuyện với bà. Cuối cùng thành ra nhiều chuyện cứ như là bà cháu không hợp nhau cho lắm...
Vậy mà, khi bà tôi bị một trận bệnh nặng vào cuối năm trước phải nằm viện cả tháng trời, chẳng có ai nhìn đồng hồ rồi cứ gọi nhắc nhở tôi đã tới giờ đi học buổi chiều, chẳng có ai đi ra đi vào kiểm tra bóp tiền của tôi còn nhiều tiền không để lúc tôi đã leo lên xe lại hỏi cần tiền không, chẳng có ai đã vào giường nằm rồi lại ra khều tôi hỏi hồi tối lúc đóng cửa mới khóa cửa chưa bóp ổ đã đem ổ ra khóa chưa, chẳng có ai nửa đêm ngồi mãi mới dậy nổi chỉ để tắt tivi đang mở mà tôi nằm coi ngủ mất tiêu rồi, chẳng có ai đón tôi mỗi khi đi học về bằng câu “Về rồi à?” với nụ cười móm mém mà mũm mĩm, chẳng có ai “giả đò ngây thơ” hỏi tôi mỗi lần thấy trong nhà có đồ ngọt bánh trái “Cái gì vậy? Ăn được không?” vừa hỏi tay vừa lủm mất một miếng mà tôi không kịp cản luôn, chẳng có ai tôi dặn 5h sáng gọi tôi dậy đi thi thì 3h sáng đã mở mắt trăn trở, 4h sáng đã lò mò thức ngồi nhìn đồng hồ canh tới 5h kém là gọi tôi dậy cho chắc ăn mà tôi thì còn ráng nướng tới 5h đúng mới dậy, cũng chẳng có ai tự đút cơm cho mình tay chân run lẩy bẩy mà vẫn tranh phần đút cơm cho cháu cố với tôi…
Tôi luôn cảm thấy con người khi sống trên đời này thường không biết trân trọng những gì mình đang có, không biết những thứ mình đang nắm trong tay quý giá đến mức nào. Thỉnh thoảng cũng có lúc tôi cảm thấy cuộc đời mình bất hạnh khi gặp những chuyện không vừa ý, cảm thấy khó chịu bực tức trong lòng vì phải sống một cuộc sống mà tôi không mong muốn. Thỉnh thoảng mà việc tự an ủi chính mình rằng ít ra mình có một gia đình yêu thương, có một mái nhà che chở, có cuộc sống ngày ba bữa cơm, ít ra mình đã may mắn gấp rất nhiều lần so với rất nhiều người cũng không có tác dụng mấy nữa. Thỉnh thoảng tôi cũng cảm thấy đáng sợ với chính tôi khi len lỏi trong tôi những suy nghĩ rằng chính gia đình tôi, chính bà tôi, mẹ tôi những người đem tất cả tình yêu thương, cuộc sống riêng tư, khát vọng và ước mơ tuổi trẻ của họ trao cho những đứa con cháu của mình để rồi khi già yếu, trở nên phụ thuộc, không thể tự chăm sóc chính bản thân mình, như những đứa trẻ to lớn hờn mát mà không thể mắng mỏ lại là gánh nặng, là nỗi trăn trở, là vật cản của tôi. Tôi biết trong mối quan hệ người và người, thế nào chẳng có lúc xung đột, mâu thuẫn, thế nào chẳng có lúc cảm thấy không hợp, không thể chịu đựng, thế nào chẳng có lúc chán nản, nặng nề? Nhưng chính dòng máu cùng huyết thống nóng hổi chảy trong huyết mạch, lòng yêu thương vô bờ bến của bà tôi, mẹ tôi sẽ xóa sạch mọi trở ngại, mọi rào cản, mọi khác biệt đó. Để rồi trên đường đời vô tình nghiệt ngã, để rồi gặp gỡ và đau đớn với những người xa lạ, để rồi bị quăng quật ra khỏi giấc mơ ngọt ngào tuổi trẻ, để rồi cảm thấy bản thân trở nên xa lạ với chính mình, để rồi nhận ra rằng ra đi để mải miết đi tìm một nơi bình yên cho riêng mình hóa ra nơi ấy lại chính là ngôi nhà gia đình của mình, để rồi mỗi ngày sống trong nụ cười rạng rỡ lạ thường của mẹ tôi, trong vòng tay ôm ấm áp thơm mùi nhàn nhạt của bà tôi, tôi cảm thấy mình chẳng còn mong ước điều gì hơn nữa. Có chăng là tôi nên dẹp bớt cái tôi đúng sai rạch ròi, nguyên tắc sống ngang tàng của mình lại, bớt tham công tiếc việc mải mê tập trung hầu hết tinh thần và tình cảm vào công việc, bớt cái sự xa cách thế hệ đại loại như thay vì tôi ngồi trong phòng coi chỉ toàn NatGeo hay Discovery thì tôi ra phòng khách mở Thúy Nga Paris by night hoặc cải lương nghe chung với bà. Bởi vì tôi biết, thời gian của tôi được tận hưởng những điều ngọt ngào không bao giờ nhiều như tôi vẫn luôn thản nhiên huyễn hoặc chính mình…

MẸ

BÙI PHƯƠNG MAI

Chồng tôi từ sơ sinh đã ở trại mồ côi. Nghe kể, khi mới vào khóc nhiều nhất phòng trẻ.
Năm 20 tuổi, qua nhiều khó khăn anh tìm được mẹ, nhưng vì danh giá gia đình và hạnh phúc tự tại, một lần nữa bà đành chối bỏ con.
Anh đã khóc rất nhiều.
Hôm nay, anh 50 tuổi. Được tin mẹ từ Pháp về đăng báo tìm con. Anh lại khóc. Hỏi: Tại sao khóc? Anh nói: - Tội nghiệp mẹ, 50 năm qua, chắc mẹ còn khổ tâm hơn anh ...