Chủ Nhật, 30 tháng 9, 2012

Thương quá rau răm


Ông Tư Mốt chỉ cái dải xanh mù mù trong mưa, bảo cù lao Mút Cà Tha kìa. Văn ờ, nói thấy xa quá chú ha. Ông cười, gạt ngang, xa gì, đây tới đó mấy hồi. Rồi chiếc xuồng máy nhỏ mong manh dập dờn đi trong giông gió. Người thành phố ngồi ngấm cái "mấy hồi" của ông già, mừng tủi thấy màu xanh cây cỏ cù lao đã thẫm trước mắt (mà sau mới biết mình mừng hụt).
Mưa dịu lại, hạt nhỏ rức nhưng gió mạnh lên, thổi xà quần, không biết đâu là chiều hướng. Ông Tư quăng cho Văn cái can nhựa còn ít xăng, bảo, tới khúc "mứt" nghen, coi chừng lật xuồng. Mà, có kịp coi gì, Văn thấy mình ngã ập xuống nước, hành lý trôi mất, lên tới bờ anh chỉ còn trụi trơ bộ đồ đang mặc. Ông Tư kè chiếc xuồng vô sau, giậm chân giậm cẳng bứt đầu gãi tóc như thể mình vừa lỡ tay làm nên cơn giông chiều nay. Bởi ông biết rằng, mưa gió kia, sóng nước mênh mông kia và cả màu chiều đang lịm dần kia sẽ làm cho người bác sĩ trẻ này thất vọng. Bác sĩ thứ sáu về làm việc ở trạm xá cù lao. Năm người trước đã ra đi, đi vì không chịu nổi thiếu thốn. Và buồn.
Cù lao Mút Cà Tha nằm gần cuối sông Dài, trên nó một chút có một nhánh sông khác rẽ về phía mặt trời, rộn rịp được đoạn đó rồi thôi. Mút Cà Tha nằm hiu hắt, lâu lâu mới thấy bóng dáng một con tàu lớ ngớ chạy vào rồi lại tẽn tò quay ra vì lầm đường, vì không biết đằng sau cù lao, sông cụt. Ngó sông vắng vẻ quá trời buồn, nhìn cảnh cù lao còn buồn hơn. Buồn từ mùi ổi chín phảng phất trong vườn, từ giọng người ới lên một tiếng rồi bặt, dư âm còn thâm u trên các ngọn cây, tiếng cạo cơm cháy xa vẳng trong nắng chiều... Từ mé rừng mắm chống lở đất phía bên này, đi hết vườn cây này gặp được một căn nhà thì lại tiếp đến vườn cây trái khác. Cuối cùng là bãi bồi, dây khoai lang bò xùm xòa phủ kín đất. Bóng người ẩn hiện dọn cỏ dưới các gốc cây. Bên đường thấp thoáng nhiều nấm đất con con của những đứa trẻ kiệt sức vì bị đẹn mà chỉ được rơ miệng bằng cỏ mực, những đứa trẻ bệnh sốt xuất huyết chỉ chữa bằng cạo gió, uống nước mía lau, rễ tranh, những đứa trẻ mắc thương hàn bị thủng ruột vì tự do chạy ra vườn ăn ổi chua, ổi chát... Những gò đất ấy đã cũ mèm rồi, bây giờ người cù lao hiểu biết nhiều, nhưng vẫn còn chuyện rủi may, còn người bị rắn độc cắn, chết trên đường ra bệnh viện huyện. Hôm ấy, trưởng ấp Tư Mốt tuyệt vọng nắm chặt hơi thở cuối của ông bạn láng giềng trong tay, tuyệt vọng thấy nó tan đi, ông về nhà viết lên tường trạm xá "Cương quyết chỉ chết vì già".
Nhân viên y tế nào mới về ngó câu khẩu hiệu ấy cũng cười, cũng thương. Nhưng rồi nửa khuya ngồi ăn mì gói, nghe cú kêu lẫn tiếng radio khọt khẹt (để chút âm thanh đấy cho đỡ quạnh), vạch đi vạch lại tờ báo cũ mèm, họ sực nhớ phải về quê lấy vợ, lấy chồng, sực nhớ vợ mình mới sinh, sực nhớ tội nghiệp ba má đã già... Và họ từ giã cù lao. Ông Tư Mốt ờ ờ ra chiều thông cảm, vẻ mặt cố tỏ ra không buồn nhưng hàm râu xuôi xị. Họ ngoắc đò đi rồi ông còn đứng mãi trên bến, nghĩ giận đám trẻ cù lao đã được học hành nhưng chẳng đứa nào chịu quay về.
Nên ông bảo với bốn mươi ba nóc gia sống trên Mút Cà Tha, "Bất cứ người xứ lạ nào đến làm việc ở đất cù lao đều quý, mình phải đối xử cho tử tế, thiệt tử tế". Gặp Văn lần đầu tiên, ông nghĩ ngay, phải giữ thằng nhỏ này ở lại cù lao, thấy cái mặt buồn buồn, ngó bộ đàng hoàng. Ông nghĩ là mình có cách, không có gì sâu nặng bằng tình cảm người với người. Thì ông đã rịt chân mấy thầy cô giáo cho đám trẻ cù lao đấy thôi. Hôm Văn đến, bà con ôm lại cho một đống áo quần, góp gạo đổ vô thùng, câu cá đem rộng. Rồi mấy con cá ốm nhom, trắng dờ con mắt, lội vật vờ tới lui chờ hóa kiếp mà Văn vẫn còn ngợp trong mớ lời mời, hết nhà này đến nhà khác, bữa thì cháo vịt, cháo rắn, bữa khác tôm nướng, lươn um...
Mà, trông Văn vẫn buồn, buồn chen giữa hai cái cười, nó tranh thủ cả khi Văn đưa ly rượu lên môi và để ly không xuống (còn lúc uống thì mặt Văn nhăn nhúm lại, vẻ buồn không rõ ràng). Hỏi làm sao buồn thì Văn cười, ủa, cháu có buồn gì đâu. Hỏi nhớ thành phố à, Văn cũng cười, không, thành phố có gì mà nhớ. Hỏi nghĩ sao mà tình nguyện về đất cù lao này, nghe tên Mút Cà Tha bộ không ớn sao, Văn (lại) cười, không, có nghĩ gì đâu, cháu chọn nơi nào hẻo lánh ít người... Nghe cái giọng như đời ta là lục bình, trôi đâu cũng được, càng xa càng tốt.
Nhưng trưởng ấp Tư Mốt phải làm cho anh chàng hiểu đời anh có ý nghĩa với đất này như thế nào, thiếu anh người cù lao sống không nổi chớ chơi à. Buổi sáng có người chạy lại than nhức đầu, sổ mũi, buổi chiều thêm chứng chóng mặt, đau mình. Vài ba chị phụ nữ đỏ mặt thập thò ngoài cửa, trong bụng rủa thầm ông già Tư Mốt, đau bụng kinh cũng bắt đi trạm xá, mắc cỡ gần chết. Trưởng ấp tà tà dài theo xóm, thấy ai rảnh rỗi là kêu, đứng đó làm gì, sao hổng lại trạm xá cho bác sĩ người ta khám. Trời đất, bệnh gì mà khám chú Tư. Ông nói tỉnh bơ, khều khều bộ râu, "Có chớ sao không, hễ mày nhậu xỉn là ói, để vậy không tốt, lại kiếm thằng Văn đi". Mới đầu thì Văn không biết, nên thấy có bà cụ chống gậy lại bảo bác sĩ coi bệnh giùm, Văn hỏi bà bị gì, bà cười, tui suy nghĩ chưa ra. Thuốc hết, huyện chưa kịp gửi, Văn áy náy, tần ngần đưa mấy thứ B1, B6 cho con bệnh đau bao tử, uống xong, ông này phởn phơ đứng dậy, tươi rói bảo, trời đất ơi, thuốc chú mày quá chừng hay. Văn đâm ra lạ. Cho tới bữa đám con nít khiêng một thằng bé ở truồng lại, nhao nhác nói chim của thằng Út Chót bị còng kẹp rồi, nó sưng chù vù nè chú bác sĩ ơi. Văn mắc cười quá, hỏi sao tới nông nỗi vầy, thằng Út Chót khọm rọm lấy tay bụm chỗ đau, phều phào nói trong nước mắt, "Tại bác Tư biểu ai cũng phải đi khám cho chú bác sĩ vui, chú không bỏ về thành phố. Con đâu có bịnh, tính bắt còng kẹp chơi...". Văn chỉ kêu được hai tiếng trời ơi.
Và anh hiểu tại sao ông già ấy lại quan tâm tới mình. Chiều nào ông cũng lại chỗ Văn, rủ rỉ rù rì. Ông biết giờ đó, bà mụ Năm, nhân viên thứ hai của trạm xá đã về nhà, có thể Văn thấy cô đơn. Ông kêu đám thanh niên lại chỗ Văn đàn hát tẳng tằng tăng, dẫn Văn đi câu cá hay soi ếch trong "mà". Văn tham gia nhiệt tình nhưng không tha thiết như người đi đường thấy vật lạ thì cầm lên, rồi lại bỏ xuống, đi tiếp. Có lần ông Tư hỏi nhà Văn ở khúc nào, Văn bảo ở chỗ ấy chỗ ấy mà trong bụng buồn cười, nghĩ nói cho có chứ chắc gì ông biết, nghe cái giọng như thể thành phố nhỏ bằng cù lao. Không ngờ ông biết thật, nói hồi giải phóng, trung đội ông đánh vô đường đó. Ban quân quản còn cấp cho ông căn nhà đằng trước có khoảng sân ngập tràn bông giấy rụng. Văn hỏi, rồi sao bác lại ra sống ở đây. Ông cười, vì cái đất này cần mình. Nói xong câu này, ông lén dò xét coi thằng nhỏ có bắt được cái ý nghĩa ngầm mà ông gửi gắm không, chỉ thấy Văn ngó lên trời, ngó xa xôi, hỏi nhìn gì, Văn ù ờ, bảo nhìn chim bay, không biết tụi nó bay tới đâu, về tận đâu. Trưởng ấp Tư Mốt thấy bất an, về nhà biểu con gái sớt nửa nồi bí hầm dừa bưng qua trạm xá. Con Nga dạ rồi tong tả đi.
Nó thường được ông Tư sai bưng thức ăn đến trạm xá cho Văn. Nhiều nhất, thường nhất là món khoai luộc nóng hổi, thơm bừng. Bưng rổ khoai từ nhà đến chỗ Văn, khói mềm cả ống tay áo Nga. Trời trở chướng, gió ráo hanh nhưng nước lên, sân trước trạm xá ngập lênh láng, con Nga xắn quần quá gối lội qua, thấy Văn, nó thưa thẽ thọt "Ba em gửi anh ít khoai" rồi về. Lần sau, nó xắn quần thấp một chút, bảo ăn khoai đi anh. Sau nữa nó cứ để ống quần bết nước, lọng cọng đứng ngoài cửa, hai gò má rựng lên, gọi "Ăn khoai nè". Lúc đấy thì nói ít, thẹn thò nhưng ở lại lâu, dọn dẹp lăng xăng, quét trên quét dưới, bắc nồi cơm lên bếp, làm cá nấu canh chua trái giác, sung sướng thấy mình bận rộn giống hệt mấy nhỏ bạn mới lấy chồng (tụi con gái thường hay điên vậy, tới khi xà quần chồng con thật, lại than số mình cực như trâu). Rồi sực nhớ bếp ở nhà lạnh tanh, nó chạy về. Ông Tư ngồi trước cửa, giấu sự thắc thỏm (và một chút lưỡng lự, mình tạo điều kiện cho hai đứa gần gũi vầy có sao không ta). Cố tươi tỉnh, ông hỏi ngay, "Con Nga lo cho anh bay xong chưa ? Mắc gì mà mày cười suốt từ ngoài đường vào đây ?". Dạ, con Nga chối bay, con đâu có cười, tại ba má sanh cái miệng con vậy mà. Nói rồi nó chạy vô bếp, bâng khuâng cười thêm một hồi nữa...
Chủ nhật, Văn mượn xe đạp chở con Nga đi chơi lòng vòng cù lao. Nga ngồi đằng sau, khép nép, sượng trân, sợ ai đó thấy hai đứa vầy, một hồi lại sợ không ai thấy, nó tiếc nuối chép miệng:
- Bữa nay người ta đi đâu hết trơn rồi cà, vắng dễ sợ.
Quẹo qua quẹo lại, nói đất nói trời (chỉ thiếu nói lời thương yêu), cuối cùng hai đứa ra bãi đào khoai. Văn hỏi má Nga đâu, nó cười, chết rồi, chết hồi sanh em, chết trên xuồng. Văn về ngó cái khẩu hiệu ông Tư vẽ trên tường. Thấy nó đỏ như một lời thề.
Bữa nọ Nga đem mấy cần xé ổi ra chợ huyện cân cho vựa thì gặp đám bạn Văn xốc xếch đứng trên bến. Nga cho quá giang về Mút Cà Tha (mà không hiểu sao trong bụng muốn nhận chìm xuồng cho tụi này bỏ ý định ra cù lao cho rồi). Ngồi dưới xuồng, ba thằng trai cứ khen Nga đẹp, nhìn là muốn ở lại đất cù lao này hoài, hai đứa gái bĩu môi, tủm tỉm cười, nói bữa nay dê thả tùm lum ngoài đường. Nga không để ý, những lời nói ngọt ngào càng không để ý. Xuồng cập bến, Nga xăm xăm đi trước dẫn đường, tong tả xộc vào phòng sau của trạm xá, cằn nhằn cử nhử, sao anh Văn bày tùm lum như vầy (cho tụi kia biết, ta đây đã thân thuộc với anh ấy đến mức nào).
Văn từ nhà tắm vào, nước trên tóc còn rỏ tong tong. Năm người họ sà vô ôm, nhảy tưng tưng, nói tui nhớ ông em nhớ anh quá chừng. Văn ngợp thở vì cái mùi thành thị quen thuộc của nước hoa, của son, của phấn, của khói thuốc lá, của những hơi thở gấp, của sự chen chúc, xô đẩy nhau… Và những kỷ niệm ùa về, nhớ quán cà phê chỗ mình ngồi không, bây giờ đổi tên khác rồi. Văn sôi nổi hỏi, vậy con nhỏ phục vụ bốc lửa còn không. Còn, mà chi, tụi con gái ở Phố Xưa còn dữ dội hơn, nhớ bar đó không ? Nhớ không, nhớ không… Đã vầy đã khác. Mà Hương của mày có con rồi, mày đã quên chưa. Không khí chùng xuống. Một đứa bạn cười, kín đáo liếc ra đằng sau, giọng xủng xoảng như ly chén bể, "Sao anh không chịu để em bù vô nhỏ Hương, ra đây trốn tình chi cho cực, em nhớ anh thấy mồ". Đuôi mắt quét tận chỗ Nga, thấy con gái cù lao đứng thừ lừ. Nga nói thôi em về, luộc khoai đem qua anh Văn đãi bạn.
Nga qua khoảng sân đầy nước thì có ông con trai chạy theo, lăng xăng nói trời ơi mát khủng khiếp, yên tĩnh tuyệt vời quá, cảnh thiệt là thơ mộng rồi hỏi, ủa, sao không thấy em gái nói gì. Nói gì bây giờ, Nga đi lẹ lẹ đằng trước, nỗi sợ cuộn lên, mong manh, Văn dễ tin lắm, hôm trước con chồn chạy ngang Nga nói con mèo Văn cũng tin, Nga bảo cây cỏ trên cù lao này đều do chim ỉa mà mọc lên Văn tưởng thiệt, bây giờ người ta nói yêu này yêu nọ, không biết Văn của mình có tin không. Nó cố kìm để khỏi kêu lên, trời ơi, sao người ta nói chuyện yêu thương dễ ợt, giòn rụm vậy cà.
Bận quay lại trạm xá, Nga còn đi nhanh hơn, đầu nó có một mớ tro lá dừa đậu hồi thổi lửa. Anh chàng nọ rớt lại dọc đường. Bước vô cửa thấy ba bốn người nằm ngủ nghiêng ngủ ngửa, Nga nói ngay, "Ủa, anh kia chưa về hả, cha, ảnh ở đâu ta ? Em hổng có đi chung" (cho anh đừng suy diễn lung tung, rồi hiểu lầm lòng dạ em). Ngó bộ Văn không để ý, Nga nhẹ lòng, thở ra cái phù, hỏi, anh đang làm gì đó, Văn cười, coi nắng cù lao. Trời, nắng có gì mà coi, anh ?
Hôm ấy Văn không trả lời, hôm sau không kịp trả lời vì Văn đưa bạn ra về rồi không trở lại. Lặng lẽ, như trốn chạy. Trưởng ấp Tư Mốt đứng ở trạm xá, thấy sau trước trống không, trong lòng nghe đau tiếc như vừa thua một ván bài lớn. Văn không từ giã ông một lời, để nói cháu về vì má cháu đang đau, hoặc cháu ra ngoài trung tâm y tế huyện một tí, rồi lên xe đi luôn cũng được, dù nhìn vào đôi mắt đang cụp xuống kia, biết người ta nói dối, dù trong tâm ông đã vẫy tay để chào xa mãi.
Trong một thoáng, ông thấy mình chùng chình, vớ được khúc cây bình bát, ông chống vào đất. Bên ngoài cái đất Mút Cà Tha dường như đã có sự thay đổi lớn. Thí dụ như con cá, lá rau, hạt gạo mến thương của người cù lao không ràng buộc được một con người (như đã từng rịt chân ông lại), thì cái bóng nhỏ nhoi của đứa con gái đang tuyệt vọng đứng ngóng chờ dưới bến không có ý nghĩa gì sao ? Tuyệt không đáng gì à ?
Nguyễn Ngọc Tư

Thứ Sáu, 28 tháng 9, 2012

Lama Zopa* kính mến - KHUÔN MẶT CON BỊ BIẾN DẠNG

(Dear Lama Zopa Radical solutions for transforming problems into happiness)

Lama Zopa kính mến,

Khoảng một năm trước, con bị tai nạn ô tô và quyết định làm phẫu thuật tạo hình khuôn mặt mình. Tóm lại, có những biến chứng làm khuôn mặt con bị biến dạng. Từ ngày ấy, con luôn phải đấu tranh với tình trạng này. Mọi thứ còn tệ hơn khi bạn trai con đã quen nhiều năm đã quyết định chấm dứt quan hệ với con vì anh ấy cảm thấy bối rối với khuôn mặt biến dạng của con và nói không còn yêu con nữa.
Con đã dành nhiều thời gian suy nghĩ về việc giờ đây nên làm gì với cuộc đời mình. Con đang cố áp dụng những lời dạy của thày trong cuốn "Chuyển Họa Thành Phúc" và muốn sử dụng điều đã xảy ra cho mình để làm lợi ích cho những người khác. Con đang dự định việc đi làm tại Maitri Leprosy Centre ở Bodhgaya, Ấn Độ, bởi vì con cảm thấy mình có thể hiểu được những gì mà các bệnh nhân ở đó đang phải trải qua.
Thưa Rinpoche, hãy cho con biết liệu đó có phải là một ý kiến tốt không.
Cầu chúc mọi tốt lành đến với thầy,
Josefina, Madrid


Lama Zopa

Josefina thân mến,

Việc đến làm việc tại một trung tâm bệnh phong là cực kỳ tốt. Thầy hoàn toàn ủng hộ con. Đó là điều tốt nhất để làm.
Đừng nghĩ về khuông mặt của con nữa. Việc phục vụ người khác sẽ làm cho con cảm thấy bình an và hạnh phúc trong tâm. Bởi vì con sẽ bận rộn ở đó nên con sẽ không còn tâm trí nào nghĩ về khuôn mặt và người bạn trai của con nữa, những thứ đó đã làm cho con đau khổ quá nhiều.
Ngoài ra, con cũng có thể giúp đỡ dự án Universal Education School tại Bodhgaya và con có thể thực hành thiền về cách phát triển lòng từ bi tới những người khác.
Với tình thương và cầu nguyện cho con,
Lama Zopa

chú thích:* Lama Zopa là nhà lãnh đạo tinh thần cho mạng lưới toàn cầu các trung tâm Phật giào và các hoạt động giúp đỡ mọi người theo con đường này - Hội bảo tồn truyền thống Đại Thừa. Tất cả những lời khuyên của Rinpoche đều dựa trên những lời dạy của Đức Phật.

Thứ Năm, 27 tháng 9, 2012

TỪNG BƯỚC CHÂN ĐI


    Bạn có thể đi như gió, nhưng bạn đi nhanh như vậy để làm gì, để tìm kiếm cái gì cho hôm nay và ngày mai?
    Bạn đi nhanh như vậy, tai nạn có thể xảy ra bất ngờ cho bạn hoặc bạn có thễ mang tai nạn đến cho người.
    Tại sao trong cuộc sống bạn không đi chậm lại, để nhìn kỹ và thưởng thức từng bước chân đi của bạn? Hạnh phúc và an lạc không xảy ra trong từng bước chân nhảy vọt mà chĩ xảy ra trong từng bước chân đi có ý thức của bạn.
    Bạn biết không? Đi mà không có ý thức chánh niệm thì đó là bước đi của những loài sống đời vô thức. Muông thú, các loài côn trùng không có loài nào là không đi, không chuyển động, nhưng chúng đi và chuyển động theo bản năng vô thức, do đó, mọi sinh hoạt của chúng đều ở trong trạng thái si mê và mù quáng.
    Vậy bạn là con người đang sinh hoạt với thế giới ý thức từng bước chân đi của bạn một cách trọn vẹn. Bạn phải đi từng bước bằng tất cả ý thức trọn vẹn của mình, bạn sẽ khám phá ra mọi sự bình an trong đời sống hàng ngày và bạn sẽ tiếp nhận được sự sống là vô cùng.
TT Thích Thái Hòa

Thứ Tư, 26 tháng 9, 2012

VỀ HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI ĐÀNG NGOÀI VÀ SỰ NGHIÊM KHẮC CỦA HỌ VỚI TỘI NGOẠI TÌNH

Theo "Tập du ký mới và kỳ thú về Vương Quốc Đàng Ngoài - 1681 - Jean-Baptiste Tavernier", bản dịch của Lê Tư Lành*

Ảnh minh họa không cùng thời với bài viết
Người Đàng Ngoài không thể lấy vợ chồng được nếu cha mẹ không đồng ý và nếu cha mẹ đã chết thì phải có những người thân cận nhất trong gia tộc thừa nhân mới được phép kết hôn. Họ cũng cần phải có sự chấp thuận của quan cai trị hay quan tư pháp của địa phương mới được phép cưới. Và nếu được quan đồng ý thì phải có quà biếu ông ta. Vì những người đó thường đòi dân nghèo quá múc họ có thể nên nhiều đám cưới không thực hiện được, gây thiệt hại lớn cho phúc lợi công cộng.
Nhà vua đang trị vì năm 1639**khi được biết có sự tham nhũng và lộng hành đó bèn ra một sắc lệnh để quy định việc đó và hạn chế quye62nn của các quan cai trị. Vua quy định rằng người con trai nào muốn lấy vợ thì phải trả một món tiền tương xứng với tài sản của người ấy, tức là vào khoảng 2.25%, còn người nào không có hơn 100 ecus thì không phải trả gì cả.
Vì dân chúng, đàn ông cũng như đàn bà rất chăm chỉ lao động, cho nên con gái làm được bao nhiêu thì giữ lấy làm của riêng để khi đi lấy chồng có thể may hai, ba áo dài đẹp, sắm một chuỗi hạt san hô hay hổ phách vàng và nhiều hạt cài vào tóc. Họ để những hạt đó phủ xuống lưng, càng dài bao nhiêu thì họ cho là càng đẹp bấy nhiêu. Chẳng có đám cưới nào lại không ăn uống đến ba ngày, nhiều khi ăn uống đến 9 ngày. Từ sau ngày cưới, chồng gọi vợ là em, vợ gọi chồng là anh. Luật lệ của vương quốc cho phép người đàn ông có thể bỏ vợ lúc nào cũng được., nhiều khi với những lý do rất nhỏ nhặt, nhưng người đàn bà lại không có đặc quyền đó, hay ít ra họ cũng gặp phải nhiều vấn đề khó khăn khi muốn chia tay. Luật lệ đó của người Đàng Ngoài được làm ra để buộc người đàn bà phải giữ phận sự của người vợ và bắt buộc họ bao giờ cũng phải tôn kính chồng họ. Khi người chồng muốn ly dị (gần đây đã ít xảy ra) họ đã làm theo cách sau đây:
Tôi đã ghi trong du ký của tôi rằng tại mấy xứ phương Đông, người ta không dùng tay bốc thịt, mà họ dùng hai cái đũa con to bằng ngón tay út, dài bằng 6 ngón tay cái, sơn son, quang dầu, dùng để gắp thịt, thay thế cho cái dĩa (fourchette). Nếu chồng muốn bỏ vợ thì người ấy lấy một chiếc đũa của mình và một chiếc trong đôi đũa của vợ, bẻ đôi hai chiếc đó ra, mội người cầm lấy một nữa đôi đũa gẫy đó, bỏ vào trong cái túi bằng lụa để giữ lại về sau. Người chống bắt buộc phải trả lại những thứ của cải mà người vợ đã mang về và phải có trách nhiệm giữ lại những con cái chung để nuôi nấng. Nhưng như tôi đã nói, những cuộc ly dị đó ngày nay càng hiếm xảy ra hơn trước.
Vả lại, luật lệ của vương quốc rất nghiêm ngặt đối với tội ngoại tình. Nếu có thề chứng tỏ được rằng một người đàn bà đã phạm tội đó và được người đó thừa nhận thì người ta đem ném người đàn bà đó cho voi giày. Con voi được huấn luyện làm nhiệm vụ tàn ác đó bắt đầu lấy vòi tung người đó lên rồi khi người đó rơi xuống đất, nó lấy chân giày nát cho đến khi người ấy chết.
Khi em tôi ở triều đình Đàng Ngoài, cậu ấy đã chứng kiến sự trừng phạt nghiêm khắc đó đối với một công chúa cung phi đã bị bắt quả tang thông dâm với một vị hoàng tử. Vì rằng câu chuyện khá ly kỳ và bi thảm nên tôi muốn thuật lại ở đây mấy câu. Ở các xứ phương Đông, có một tục lệ rằng khi một vị vua chết đi thì người ta để tất cả những người đàn bà đã từng phục vụ nhà vua khi còn sống tại một khu hẻo lánh ở cuối hoàng cung. Người ta cấp cho mội người 2 cvo6 thị tỳ để hầu hạ. Họ ăn uống một mình và cách biệt như vậy, chẳng nhìn thấy một ai cho đến khi chết. Người ta chẳng biết một vị hoàng thân là em họ nhà vua đã dùng phương tiện gì và mưu mẹo nào mà trước đây đã trông thấy một cung phi của nhà vua đã mất, vốn là bác ruột hoàng tử này, nay hoàng tử muốn gập lại người đó, hoàng tử đã vượt mọi khó khăn và đánh lừa được tất cả lính gác cửa. Hoàng tử dùng một mẹo mà khó ai có thể khám phá ra được.
Trước hết, ta nên biết rằng vương quốc Đàng Ngoài cũng như những vương quốc khác ở châu Á, ở trong cung vua cũng như ở trong phủ các vị vương hầu, thường thường thì nhà bếp ở cách xa nhà ở, thường là cách nhau một cái vườn. Đến giờ ăn cơm. muốn lấy thức ăn từ bếp lên nhà, người ta dùng một cái hòm để thức ăn vào đó và muốn cho thức ăn khỏi nguội, các đĩa thức ăn được đặt trên những then ngang cách nhau độ một ngón tay. Ở dưới then ngang đó có một miếng sắt khác cách đáy hòm độ một gang tay. Khoảng giữa miếng sắt và đáy hòm người ta đốt than để cho thức ăn được nóng. Tôi đã trông thấy ở trong cung điện Versailles những cái hòm tương tự như vậy và cũng dùng vào mục đích giữ nóng thức ăn, chỉ khác là không thể đốt lửa trong đó như cái hòm ở Đàng Ngoài. Mỗi hòm có hai người khiêng. Vị hoàng tử đã khéo léo ẩn núp trong hòm để được đem đến phòng người cung phi mà hoàng tử định gặp và hoàng tử ở đó liền mấy hôm mà không ai hay biết. Hoàng tử liền bị đưa về trước vua và ông bắt hoàng tử phải đeo xiềng vào cổ, vào tay và vào người, sau đó cho người dắt đi suốt trong 5 tháng liền cho để cho dân chúng trông thấy.
Về sau, hoàng tử bị nhốt vào trong một gian ngục hẹp trong bảy năm cho đến khi nhà vua qua đời. Mãi sau khi thái tử lên nối ngôi, ông mới tha tội cho nhưng vẫn bắt đầy ra viễn biên làm lính. Còn người cung phi bị giam vào một phòng nhỏ trên một cái chòi, trong 12 ngày không ai được cho ăn uống gì hết, sau đó người ta cho dỡ mái phòng ra cho ánh nắng gay gắt chiếu vào làm cho người lả đi mà chết. Bị đọa đày tàn bạo như vậy được ba ngày thì người đó chết. Hai người thị tỳ hầu hạ bà ta cũng chẳng được tha, bị mang ra quăng phía trước hoàng cung cho voi giày. Con voi lấy vòi quắp lấy họ, quật xuống đất đến gần tắt thở, nó còn lấy chân xéo nát mình họ. Còn hai người khiêng hòm thì bị phanh thây, không phải như ở châu Âu đem tội nhân buộc vào mỗi con ngựa, mà là trói hai chân hai tay vào bốn chiếc thuyền, cho thuyền cùng chèo đi, người bị xé nát ra. Khi tôi ở vương quốc Bengala, tôi thấy ở thành phố Đaca trên bờ sông Hằng cùng xứ, một người Bà la môn cũng bị trừng phạt bằng hình phạt đó. Người ấy định phản bội và bắt Cha-Estkau là chú ruột của quốc vương Đại Mogol, đem nộp cho xứ Arachan. Chính người Bà la môn đó đã nhiều lần lừa dối Hồi vương Sujah là em của Orengzeb, ông này hiện đang làm vua ở Indoustan**
Chú thích của blog: *Bài viết này là một tư liệu lịch sử hiếm hoi, được trích trong "Tập du ký mới và kỳ thú về Vương Quốc Đàng Ngoài" - xuất bản lần đầu vào năm 1681 - do Jean-Baptiste Tavernier biên soạn. Tập du ký này chủ yếu dựa vào nội dung bản thảo những ghi chép của Daniel Tavernier (em trai của JB Tavernier) trong dịp ông ta đến Kẻ Chợ (Đàng Ngoài) với tư cách là viên sĩ quan phụ trách về kế toán , hành chính trên tàu buôn của công ty Đông Ấn Hà Lan trong khoảng thời gian từ 1639-1645. Chúng ta được biết chiếc tàu buôn của công ty Đông Ấn Hà Lan đầu tiên đến kẻ chợ vào năm 1637, dưới thời vua Lê Thần Tông - Trịnh Tráng. Cách hành văn của thời đó rất lủng củng khác nhiều so với ngày nay, câu thì dài, lập đi lặp lại, chấm câu không được mạch lạc, một số từ tác giả dùng cũng không đúng với sự vật muốn nói ... điều này khiến các người đọc Việt Nam ngày nay rất khó lĩnh hội.
** Ấn Độ