Vương Hồng
Sển
Thuở đó
có nhiều thầy kẻ tu trên Tà-Lơn (Phnom Kuleng, trên Cam-bu-chia), kẻ học đạo nơi
Thất Sơn Bảy Núi miệt Châu-Đốc, phần nhiều đều có phép thuật cao cường, tốt hơn
là nên xa lánh họ hơn là khinh dể hoặc chọc họ giận mà sanh tai họa có ngày. Họ
có thiên-linh-cái - Thiên -linh-cái có thứ là đầu lâu (cái là dù, lọng, hiểu rộng
là đầu) người con gái chết còn lòng trinh, hoặc cái sọ khô của một thiếu phụ chết
vì bạo bệnh, đẻ non chết sẩy, bọn phù thủy đào mả cắt đầu lâu đem về luyện
phép; Thiên-linh-cái khác nữa là cái bào thai đứa trẻ, bất luận trai hoặc gái,
vừa được ba bốn tháng còn nằm trong bụng mẹ, và vì người mẹ quá ngây thơ, trót
làm vợ tên thầy phù thủy cho đến thọ thai, rồi bữa nọ nó mơn trớn giả yêu đương
"một hai đòi xin đứa con trong bụng kia cho được". Người đàn bà nhẹ
lòng trả lời "Ừa thì cho! Con mình chớ con ai!". Thế là người đàn bà ấy
tự kêu án tử hình cho mình mà không dè, vì phép luyện thiên-linh-cái nầy phải
có sự ưng thuận của người mẹ, và một ngày nào đó đúng giờ đúng lúc, tên phù thủy
thâm độc gạt vợ lên núi vô rừng, trói tay mổ bụng lấy "đứa con đã cho nó"
ra, luyện phép. Nó đem về phơi khô tẩm thuốc, đi đâu cũng giắt bên mình, và con
ma chết yểu ấy linh lắm, dường như theo lời đồn năm xưa tên cướp khét tiếng
trên Biển Hồ, danh gọi Đơn Hùng Tín, có luyện thứ ma nầy, và cho đến khi phạm tội
và hết linh, Đơn Hùng Tín mấy năm làm mưa làm gió miệt Biển Hồ và Hậu Giang,
không cò bót nào bắt được vì con ma mách tin trước cho nó, và người ta đồn Hùng
Tín biết đến phép tàng hình (*).
Ngày nay xét
lại, ta đã ít nghe những chuyện mê tín rùng rợn như vậy, nhưng tôi dám chắc những
tục dị đoan nầy thể nào cũng tồn tại không nhiều thì ít các nơi hẻo lánh trên rừng
Cao-Miên-Thượng, hoặc dưới đầu gành cuối bãi vùng Cà Mau, hoặc nơi các sốc xa Bạc
Liêu, Sốc Trăng. Một bằng chứng tôi biết chắc là lối năm 1946/47, trong đám
lính bạt-ty-zan da đen ở Sốc Trăng, theo đóm ăn tàn, theo lính Tây giết hại đồng
bào Miên Việt, có tên cai nọ, trước có làm hương quản, ác hết sức nói và giết
người như ăn cơm bũa. Chính miệng nó khoe tại một quán nước ở ngã tư đường Đại
Ngải tỉnh Sốc, rằng nó có một chai keo đựng đầy mật sống của những người nó đã
hạ thủ trong buổi hành quân và chờ khi nào nó đếm đủ một trăm cái mật người
trong keo, nó sẽ lên núi tìm thầy luyện thiên-linh-cái và sẽ dùng "mật đủ
số trăm" nầy làm thuốc "trường sanh bất tử". Cũng may sao tên
sát nhơn ngoài vòng pháp luật ấy đã chết. Nó chết sau một đêm say nhừ tử, nó nằm
trên mui ghe rồi ngủ quên rồi lăn đùng xuống sông cái, thay vì ăn mật người để
sống trăm năm nó đã làm mồi cho miệng cá. Sát nhơn thì đền tội, lẽ trời chí
công. Tên Thổ ác độc nầy tên Keo. Khi nó chết trong keo có hơn 40 trái mật.
Chú thích (*): Chuyện tướng cướp Đơn-Hùng-Tín là có thật.
Chuyện ly kỳ khó tả, e viết nhiều làm lạc đề nên to6ixin tóm tắt nột chuyện tôi
được chứng kiến. Năm 1928 tôi đổi về làm thơ ký quyền coi đồ phát mãi tại tỉnh
Sa Đéc, vì tỉnh nhỏ nên không có tòa án và sở phú-de (fourrière) thuộc tôi coi
sóc. Ông Phán Phải, người trước tôi, khi đổi đi, có giao lại cho tôi một hồ sơ
và một chiếc ghe cà-vom neo ngoài mé sông phía Vọng Thoản, dặn phải bán đấu
giá, lấy tiền nhập kho, vì chiếc ghe nầy là ghe hoang trôi từ hạt Mỹ-Tho tấp
vào hạt Sa Đéc, nên Sa -Đéc trọn quyền phát mãi.Ông Phán Phải định giá chiếc
ghe một trăm năm chục bạc(150$00) rao bán mấy lần mà không có người mua, quan
tham biện chủ tỉnh cằn nhằn mãi. Đến lượt tôi, may quá, đến ngày bán, có người
trả lên hai trăm bạc và mua được chiếc ghe cà-vom trôi bạt, chèo đi mất tích.
Tôi rất mừng vì mới đổi lại mà lập được chút công đem tiền vào kho. Việc nguôi
ngoai không còn ai nhắc nữa, bỗng nửa năm sau, nhơn ăn tiệc nhà thầy Cai Kinh ở
Tân-Qui-Tây, giữa tiệc có người nói nhỏ tôi nghe được thì chiếc ghe cà-vom kia
vốn của Đơn-Hùng-Tín bị bắn chết trên địa phận Mỹ Tho, ghe trôi về Sa-Đéc, mấy
tháng nay có tên phó đảng hỏi thăm tìm ghe chuộc lại mà không ra manh mối. Tôi
nín thinh đến ngày nay mới viết bài nầy vì nghe đâu chiếc ghe có hai đáy và chứa
trong đáy kín rất nhiều vàng bạc nữ trang nên tên phó đảng ra công tìm mãi.Tôi
mừng cho tôi không tọc mạch xem chiếc ghe, vì nếu thấy động lòng tham e ngày
nay không thong thả ngồi viết sách.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét