Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

TƯỚNG CƯỚP ĐƠN HÙNG TÍN

Vương Hồng Sển

Làng của người Miên trên Biển Hồ
Mà luật trời sanh cũng ngộ: tỷ như ngoài Bắc con sông Hồng có đê giữ nước cẩn thận nhưng mỗi khi đê vỡ là thiên tai bi thảm vô ngần. Còn trái lại đất đồng bằng vùng Nam kỳ lục tỉnh vốn không biết đắp đê ngăn nước là gì và trời sanh vùng Nam có sẳn ba cái túi không lồ đề chứa nước dư của con sông Mé-kong nhờ đó tránh cho dân Cơ-Me và Việt-Nam khỏi cảnh ngập lụt hàng niên. Ba cái túi chứa nước thiên nhiên to rộng ấy là : 1) Biển Hồ (Tonle-sap) trên đất Cao-Miên; 2) Đồng Tháp Mười hay trũng Tháp Mười giữ nước thặng dư của sông Tiền-giang (Mé-kong) và 30 Đồng Cà Mau hay trũng Ba-Thắc (srock tưk khmau) chứa nước thừa thãi sông Hậu (Bssac).
Cứ mỗi mùa nước lớn, mưa ngập tràn thì nước Mé-kong chảy dội vào Biễn Hồ và người tiền bối nào lựa tên "Hồ lai láng như biển nước ngọt" (sap là nước ngọt) thật là đúng và khéo lựa. Mùa ấy nước dâng lên ngập luôn cả một khu rừng cây chỉ còn lé đé thấy những ngọn và những nhánh nào cao khỏi mặt nước, kỳ dư đường xá cầu kỳ đều chôn sâu dưới ngọn thủy triều. Đây là mùa cá lên rừng đẻ trứng sanh con và khi bầy cá rồng rồng ấy lớn lên thì đã có sẵn lá cây, trứng kiến, sâu bọ làm mổi nuôi mau lớn và khi tới mùa nước giựt, lui về sông lớn, thì cá kia cũng vừa trộng đủ sức  chịu đựng với sông sâu nước chảy. Cái luật giữ cái chi thừa trừ để phân phát ra lúc thiếu hụt ấy, luật trời vẫn ban hành y một thể thức vừa cho vùng Tiền-Giang và Đồng Tháp Mười, vừa cho vùng Hậu-Giang và đồng Cà-Mau y hệt.
Thuở ấy, người Việt ta đã biết lên Biển Hồ khai thác nghề đánh cá và phơi khô làm mắm. Một tiền bối đã quá vãng nhưng danh còn để lại là ông Lái Tiếng. Và cũng nên nhắc luôn một tay giang hồ mã thượng xứ Biển Hồ nữa là Ba Tín, cũng xưng Đơn-Hùng-Tín mà lớp bọn tôi còn biết hoặc còn nghe nhắc lại rất nhiều. Ba Tín rất khí khái. Sở dĩ va chọn nghề tướng cướp Biễn Hồ là vì gặp buổi thái bình, không đất dụng võ thì những tay võ nghệ cao cường cỡ Tín, nếu có lựa nghề lục lâm cũng là thậm phải. Phải nói cho công bình, Tín có thói quen cướp của những kẻ tham ô, làm giàu ác đức, và sẵn lòng trợ giúp những người nghèo khó, ai ai sống lớp đó trên Nam-Vang đã từng biết danh. Nghe nói một đêm kia, Tín dắt anh em đồng bọn đi ăn hàng, bọn chúng đến đánh nhà một trọc phú lấy được của cải rất nhiều, xong rồi kéo trở về xào huyệt, lúc ấy trời còn sớm độ mười giờ hay mười một giờ khuya, nhơn chèo ghe lớn đi ngang nhà sàn cất dọc theo bờ Hồ, thấy nhà nọ đèn thắp sáng trưng, Tín định làm thêm một mẻ nữa rồi hãy về trại nghỉ ngơi. Không dè khi vô nhà thì mới biết nhà nầy đang mừng tiệc cưới. Chủ nhà cũng là một tay sạch đời lịch duyệt, thay vì tỏ vẻ sợ sệt, lại đánh bạo làm gan, chỉnh y khăn lớn áo dài, kéo hết họ hàng và cô dâu chú rể ra lạy mừng và rước Tín và đồng bọn nhập tiệc cưới "hỷ hạ cho vui!". Đem rượu ra đãi, hối trẻ giội thêm thức ăn, sửa tiệc chỉnh tề đưa cô dâu chú rể ra lạy họ. Tín định bụng vào đây là để ăn cướp, sẽ bảo cô dâu và họ hàng lột hết nữa trang và đồ quý giá nạp cho mình. Ngờ đâu chủ nhà làm tỉnh, một mực sai dâu con trà rượu kính cẩn ra lạy Tín và gởi gấp sanh mạng cho khách anh hùng Biển Hồ. Tín hứng chí vì rượu và thấy cử chỉ đàng hoàng quân tử của chủ nhà nên đổi ý, giả lả cười lớn chịu làm cha đỡ đầu cho hai trẻ, chụp ly rượu lớn nốc một hơi cạn đáy và sai phó đảng lấy ra một đôi vàng một lượng và một ngàn bạc mặt vừa cướp khi nãy để lên mâm trầu rằng lễ mừng của Tín cột tay hai trẻ, chúc câu hạnh phúc rồi kéo nhau xuống thuyền đi thẳng, chủ nhà mừng được một phen thoát nạn, hú vía. Vì cử chỉ tướng cướp nầy mã thượng như vậy nên khi Tín đi làm ăn bị động, thì lính tráng không khi nào bắt được Tín vì nhơn tâm thủ đắc, dân che chở cho Tín khá nhiều.Và cũng vì Tín không bị lính bắt, cho nên có người đồn va có chuộc Thiên-linh-cái của thầy ngải Tà Lơn. Mãi lâu sau Tín bị tay em phản đảng và tố giác nên Tín bị bắn chết trên một khúc sông thuộc hạt Mỹ Tho, thi hài được giảo nghiệm đúng là xác của tướng cướp lừng danh Đơn-Hùng-Tín. Cả bọn đều rút lui bỏ chạy tứ tán. Còn lại một chiếc ghe cà-vom lớn, của phe Tín, trôi giạt về địa phận tỉnh Sa-Đéc và được làng xã giải giao về chủ tỉnh. Vì là đồ vật không ai nhìn nên đúng một năm có lịnh cho phát mãi. Lúc ấy kẻ viết bài nầy vừa chân ướt chân ráo đổi lại tòa bố Sa-Đéc, làm chức ký lục phát bạc và có phận sự tiếp tục côn việc bỏ dở của viên ký lục trước tên Phải, là việc phát mãi chiếc ghe bỏ hoang không ai nhìn nhận nầy. Nguyên lại đời ký lục trước đã đem ra bán đấu giá một lần nhưng không ai trả tới giá cao  nên còn lại đây. Đến phiên tôi, cũng may khi lên đèn đấu giá có người trả hai trăm bạc đúng giá nên khi đèn tắt chúng tôi làm thủ tục nhận tiền đóng vào kho và cho phép người mua chống chiếc ghe ra khỏi phú-de chèo chống đi mất dạng. Công việc nguôi ngoai lâu hoắc bỗng một hôm nhơn đi ăn tiệc cưới nhà một ông cai tổng ở Tân-Qui-Đông, tôi lóng nghe bàn kế bên có người bàn luận về chiếc ghe cà-vom bán hai ba trăm bạc (và do tôi bán) nguyên là chiếc ghe của Ba Tín, vốn làm hai đáy, trong khoảng giữa hai đáy nầy có làm một ngăn kín, và người mua được chiếc ghe nầy là một đồ đảng của Tín, họ biết được trong ngăn có chứa vàng bạc của cướp định chừng lên tới số muôn số vạn. Về sau có tên phó đảng mãn tù theo tìm chiếc ghe thì công việc ghe có vàng mới đổ bể ra. Tôi vô can mà cũng dính líu xa xôi tới tiểu sử Đơn-Hùng-Tín anh hùng tướng cướp Biển Hồ, và việc bán ghe xảy ra năm 1928.
Tôi đã nói dân đầu đen máu đỏ miệt Hậu-Giang vẫn có óc lãng mạn lang bang và phần đông đều thích đọc truyện Tàu nhứt là truyện Thuyết Đường. trong ấy có nói nhiều về Đơ-Hùng-Tín và nhóm anh hùng Ngõa-Cang-Trại. Nếu cho phép tôi tán rộng thì cọng rau tấc đất và con cá dưới sông Hậu-Giang cũng đồng một tâm tánh! Nhưng có người sẽ cười tôi và tỏ vẻ không tin. Nhưng các người cứ xem cho kỹ, con cá nước ngọt Cần-Thơ lội đến ngả bảy (Phụng Hiệp) gặp nước pha chè lờ lợ không ngọt không mặn thì thối bộ tức khắc. Thậm chí và trái lại, cây ô rô cây bần (thủy liễu) quen với nước mặn, lại chỉ sống và mọc vùng nước mặn, và không sống chỗ khác, vì bắt hạp thủy thổ. Nếu một ngày nào tôi có phúc được làm lớn, tôi sẽ lựa cây bần làm tượng trưng cho khí tiết của tôi. Khí tiết gì? Xin thưa khí tiết một cây mang tên là BẦN, mặc dầu vậy lá luôn luôn xanh, có trái nuôi được bầy khỉ tự do và có rễ mọc chỉ thiên như tôi đã viết hai lần, và nay còn viết lại nứa. Cây ấy, được cái tên rất nho nhã là "thủy liễu", cũng như hai chữ "Vương-Hồng" của tôi không ai chê, duy tên cúng cơm thì khác! Cái tên nôm của cây thủy-liễu cũng đồng một thể.