Đỗ Lai Thúy
Cười hở mười cái răng – Tục ngữ
Nếu
con người, như Aristote nói, là một động vật biết cười, thì người Việt mình, có
lẽ, người hơn cả. Bởi lẽ, người Việt rất hay cười. Giải thích về cái tính hay
cười của người Việt, nhà văn Nguyễn Tuân cho rằng từ thế hệ này sang thế hệ
khác lúc nào cũng phải đấu tranh với thiên tai địch họa, nên người Việt “CẦN
CƯỜI” (tham luận trong Đại hội Hội nhà văn lần II – 1963) để giải tỏa sự nặng
nhọc, làm vệ sinh tâm hồn, để vui mà sống. Học giả Nguyễn Văn Vĩnh thì coi tính
hay cười đó là vô duyên, thậm chí vô nghĩa: “An Nam ta có cái lạ thế nào cũng
cười. Người ta khen cũng cười, người ta chê cũng cười. Hay cũng hì, dở cũng hì;
phải cũng hì, quấy cũng hì. Nhăn răng hì một tiếng mọi việc hết nghiêm trang”
(“Gì cũng cười” – Đông Dương tạp chí số 22-1907). Bình luận về cái cười của
người Việt, nhà văn Phan Khôi còn trách cứ nặng nề hơn: “Chúng ta cứ mở miệng
là xưng mình là con rồng cháu tiên, cứ tưởng mình là văn minh lắm, ngờ đâu chỉ
một cái cười cũng không nên dáng” (“Cái cười của con rồng cháu tiên” – Phụ nữ
Tân văn số 84 – 28/5/1953). Những nhận xét trên về người Việt cười, khoan hãy
nói đến sự đúng sai, đều thể hiện rõ một điều là cái cười làm bộc lộ một nét
nào đó trong tính cách người Việt, đôi khi là một nét sâu sắc và khá bất ngờ.
Có lẽ, khi cười, cái vô thức không bị canh giữ, con người dễ để lộ tướng tinh.
Cùng
với các truyện tiếu lâm, các câu đố tục giảng thanh hay đố thanh giảng tục, các
bài ca dao nói ngược, các chú Bờm, Hề, Tễu… người Việt còn cười dài trong các
truyện “Trạng Quỳnh”, “Trạng Lợn”, “Trạng Vật”, “Trạng Cờ”, “Trạng Ăn”. Xuất
phát từ những giai thoại về các ông “Trạng nguyên” (có thật), dân gian đã xây
dựng nên những ông “Trạng dở” (hư cấu) để gửi gắm vào đấy những ao ước, thèm
muốn của mình. Tại sao dân chúng chỉ mơ đến ngôi Trạng mà không ước đến ngôi
Vua – ngôi vị chúa tể của xã hội Việt Nam cổ truyền? Tưởng đã mơ thì ước luôn
một lèo, chuyện mơ ước ấy mà, có mất gì đâu? Có thể ngưỡng văn hóa đã làm cho
người Việt chừng mực ngay cả trong giấc mơ? Hoặc cũng có thể, thân phận kép của
ông Trạng gần gũi với dân chúng, nên họ dễ hóa thân hơn?
Như
đã biết, vua là con trời, nên ngôi vua chỉ dành cho những người dòng dõi
con nhà trời theo chế độ truyền tử. Hoặc giả dân có nổi can qua, thì con sãi
nào ở chùa nay không phải quét lá đa nữa thì cũng phải là người có thiên mệnh
(hoặc chí ít thì sau khi làm vua rồi cũng phải vẽ cho được lá bùa thiên mệnh
đó) Cho nên, xét cho cùng, chuyên đâu đóng đó. Ngôi vua chỉ dành cho những kẻ
đặc tuyển. Còn ngôi trạng thì khác. Chế độ thi tuyển quan chức không nhiều thì
ít đã mở ra cho tất cả mọi người thuộc các thành phần xã hội (trừ xướng ca vô
loài, dĩ nhiên) một cơ hội như nhau. Người có khả năng ăn học (tức có ăn để
học), có trí thông minh trung bình, có sự cần cù, nhất là có đầu óc khuôn phép,
đều có thể thi đỗ làm quan. Cũng có thể phải thêm một chút may mắn nữa, bởi học
tài thi phận cơ mà). Trạng nguyên là đỉnh của những người hay chữ. Mà hay chữ
thì “trăm nghề đều kém mẽ, chỉ đọc sách là cao”, vì “trong sách có nhà vàng,
trong sách có người ngọc”. Bởi vậy, đỗ trạng là một sự thay thân đổi phận ghê
gớm, từ người dân một bước lên thành dân chi phụ mẫu, hay nói theo thuật ngữ
phê bình văn học hiện đại là “sự chuyển đôi không gian xã hội”. Bởi vậy, cái
cảnh võng anh đi trước, võng nàng theo sau là mơ ước của bao chàng đọc sách và
bao nàng quay tơ.
Trong
số các truyện trạng thì Trạng Quỳnh, Trạng Lợn đứng đầu bảng của khẩu vị cười
người Việt. Không hẳn vì đó là những câu chuyện có cốt, có nhân vật trung tâm
xâu chuỗi các biến cố, có tính hoàn chỉnh. Không hẳn vì đó là những giai thoại
đặc sắc nhất, thú vị nhất, có tính tư tưởng cao nhất. Có lẽ, Trạng Quỳnh, Trạng
Lơn, hơn đâu hết, bằng tiếng cười đã phá tung những xiềng xích để cho những
xung năng vô thức bị kìm nén bấy lâu trong mỗi con người nổ tung ra, tạo sự hả
hê, sự khoái trá. Và, cũng vì thế mà tiếng cười Trạng Quỳnh, Trạng Lợn bộc lộ
chiều sâu tâm lý người Việt.
Trạng
Quỳnh gồm 48 mẩu chuyện. Mỗi mẩu là một giai thoại trong đời nhân vật nhằm đả
kích, châm biếm một ai đó. Có thể là bọn trẻ đồng trang lứa trong làng (Đầu to
bằng bồ), kẻ trên (Trời sinh ông Tú Cát), kẻ sang (Miệng người sang có gang có
thép), quan thị (Lỡm quan thị), Vua (Tiên sư thằng Bảo Thái), Chúa (Đá bèo, Đại
phong, Món ăn mầm đá), Thành Hoàng, Bà Banh, Chúa Liễu… Tóm lại, các nhân vật
trên đều thuộc tầng lớp thống trị, cả thế quyền lẫn thần quyền, tức theo khẩu
ngữ ngày nay, bọn phong kiến sống và bọn phong kiến chết. Bởi vậy, các nhà
nghiên cứu đều chúng khẩu đồng từ coi Trạng Quỳnh là tác phẩm có tính tư tưởng
và tính chiến đấu cao. Chỉ xin lấy một ví dụ tiêu biểu: “Trạng Quỳnh là đạo
đức, trí tuệ, kinh nghiệm thực tiễn của nhân dân, là tính chất duy vật tự phát
của nhân dân đối lập với sự ngu dốt, phi lí, vênh váo, độc đoán, hư vô, đốn
mạt, dâm đãng, tàn bạo của bọn phong kiến. Ở Trạng Quỳnh, nhân dân và phong
kiến không dung thứ nhau được. Mâu thuẫn giai cấp lên đến tột độ… Rõ ràng là
cuộc cách mạng đã chín muồi” (Cao Huy Đỉnh – “Tìm hiểu tiến trình văn học dân
gian Việt nam” NXB Khoa học Xã Hội -1974)
Bây
giờ xin sang một phương diện khác ấy là tìm hiểu xem thứ vũ khí tiếng cười nào
mà Quỳnh dùng để đả kích bọn thống trị. Trước hết đó là trí thông minh, óc thực
tiễn của Trạng Quỳnh (Đầu to bằng bồ, Dê đực chửa) nhưng chú yếu là chơi xỏ (Đá
bèo, Ông nọ bà kia, Chúa ngủ ngày, Trạng chết chúa cũng băng hà), bẫy (khốn nạn
thân gà thiến, Tạ ơn Chúa Liễu), lỡm (Lỡm quan thị, Lại lỡm quan thị, Sứ
Tầu mắc lỡm) chửi bới (Thừa giấy vẽ voi, Thay lời giáo Thụ)… Tóm lại, cách mà
Trạng Quỳnh hay dùng nhất để chống lại bọn phong kiến thống trị là “chơi xỏ và
chửi bới”. Ở đây xin lưu ý một điều là nội dung chống đối là quan trọng, nhưng
dưới cái nhìn tâm lý – văn hóa thì cái cách chống đối còn quan trọng hơn. Bởi
lẽ, cái cách đó là sự ngưng kết lâu dài trong thời gian, là lối ứng xử, là chìa
khóa để mở vào cõi vô thức cá nhân và vô thức tập thể của một con người, một
tộc người.
Trạng
Quỳnh cười, cười bằng sự chơi xỏ và chửi bới, rõ ràng phản ánh tâm lý của người
bị trị chống lại kẻ thống trị mình, của kẻ yếu chống lại kẻ mạnh. Cách chống
đối này, rõ ràng không thể hiện rõ thế thượng phong, mà phần nào chứa đựng cả
sự bất lực.
Cũng
dễ hiểu, dân ta sống lâu năm trong chế độ nông nghiệp quân chủ Nho giáo, là
thân phận một thần dân, chịu nhiều tầng áp bức, nên đã hình thành lối ứng xử
chống đối trong chịu đựng, chịu đựng nhiều tầng áp bức, nên đã hình thành lối
ứng xử chống đối trong chịu đựng, chịu đựng mà vẫn chống đối. Lại cũng dễ hiểu
dân ta cư trú sát nách ông bạn láng giềng khổng lồ, có tư tưởng bành trướng
luôn luôn sẵn sàng gây sự, nên lúc nào cũng phải nín nhịn. Khi nào nhịn, phải
trải thảm đỏ cho về nước và tiếp tục cống người vàng, hoặc tự trói mình lên sát
biên giới để nhận sắc phong. Nói là mềm dẻo sách lược thì cũng đúng, thần phục
giả vờ, độc lập thật sự lại càng đúng. Nhưng dẫu sao lối ứng xử ấy không thể
không để lại vết hằn trong tâm lý tộc người.
Trạng
Lợn gồm 19 mẩu, có tích có chuyện, có mở đầu bằng mô tip kết thai thần kỳ (ông
sao sa vào thùng nước tắm của bà mẹ) và có kết thúc bằng cảnh thoát trần một
gót thiên tiên. Con đường thành Trạng của Trạng hoàn toàn do gặp may. Văn
chương thế giới đã có những nhân vật chuyên gặp xúi quẩy , nhưng cũng có những
người chuyên gặp may mắn. Trạng Lợn là một người như vậy. Trạng có vận may cũng
dễ hiểu vì Trạng, xét cho cùng không phải là người trần, mà là người xuống
trần, nên Trạng luôn được một ông già hoặc một lực lượng siêu nhiên, nhưng tình
cờ. Đáng chú ý hơn là cái cách Trạng gặp may, cái cách thành công của Trạng.
Trạng vốn dốt lại lười học (phải chăng chữ lợn, Trạng Lợn, không đơn giản chỉ
nghề đồ tể của bố Trạng?), điếc không sợ súng, nhưng nhỡ sa vào tình huống khó
xử, Trạng đều nói bừa hoặc nói phét. Nhưng ác thay những lời nói bừa, nói phét
ấy đều trúng cả. Thật là dốt chữ… thành thần. Sự đối lập giữa hai cực đó càng
làm nổi bật cái may của Trạng.
Không
như Trạng Quỳnh, đánh giá Trạng Lợn ý kiến của các nhà phê bình không đồng
nhất. Người này cho rằng “Trạng Lợn là một nhân vật tiêu cực”, khoác lác, “đúng
nghĩa đen của nó”… “thứ Trạng ấy lại phục vụ cho chế độ phong kiến thối nát, mà
chính Lợn cố ý xin cho được” (Cao Huy Đỉnh). Người khác: “Truyện Trạng Lợn đã
đem vua chúa, quan lại, nho sĩ ra làm trò đùa” (Đinh Gia Khánh – “Văn học dân
gian Việt nam”). Còn người thứ ba: “Truyện Trạng Lợn đả kích bọn quan lại, bọn
nho sĩ phong kiến ngu dốt, bọn chúng chỉ là một lũ hư danh, cơ hội, chực leo
lên đoạt vị trí thống trị chẳng qua vì gặp may, vì bạo loạn” (Kiều Thu Hoạch –
“Thăng Long, Đông Đô, Hà Nội” – Sở VHTT 1991)
Những
nhận định trên đều xuất phát từ cái nhìn xã hội học, lấy sự phản ánh xã hội,
đặc biệt là cuộc đấu tranh giai cấp, làm tiêu chí đánh giá tác phẩm, nên không
khỏi có lúc phiến diện, gượng ép. Thực ra, đọc truyện “Trạng Lợn”, người ta
thấy đó là cái cười vô cùng sảng khoái. Người ta không thấy ghét Trạng Lợn,
ghét sự tiến thân bằng những tình cờ may mắn của anh ta, mà chỉ thấy đó là
trường hợp thú vị, kỳ lạ vốn cũng là một mặt của đời sống, cái mặt làm cho cuộc
sống đỡ tẻ nhạt, trần trụi, dung tục. Đó là giấc mơ, mà qua đó dân được và muốn
thay thân đổi phận, đây là chỗ mọi người đồng lòng yêu mến Trạng Lợn, bởi ai
cũng muốn tình cờ gặp một vận may như Trạng Lợn.
Người
Việt là một dân tộc nông dân. Thiểu số những người hiện nay tuy không làm ruộng
nữa, không sống ở nông thôn nữa, nhưng vẫn bảo lưu một căn tính nông dân. Người
nông dân Việt vốn là một tiểu nông, sống với nền kinh tế tự nhiên, tự cấp tự
túc sống trong làng xã có tôn ti, trật tự, nên không dễ gì thay đổi thân phận
được, ngoại trừ trong mơ ước. Và trong cái không gian làng xã, tiểu nông ngưng
đọng và bức bối về tinh thần đó,mơ ước dễ chuyển thành huyễn tưởng, một
hư tưởng sinh tồn. Người ta chỉ tin vào sự thần kỳ, tin vào những đổi thay bỗng
nhiên, bỗng chốc, bất ngờ, đại nhảy vọt… Người ta tin vào chủ nghĩa cứu thế,
đặt kỳ vọng vào sự dẫn dắt của một cá nhân thần thánh nào đó.
Trạng
Quỳnh và Trạng Lợn là hai nét tâm lý cơ bản của người Việt cười. Đó là hai vế
của một câu đối, một cỗ xe ngựa song hành suốt dòng thời gian như một hằng số.
Trạng Quỳnh là vế trắc, thông minh, tài trí, ghét kẻ trên, hay xỏ xiên đả kích,
chửi đổng. Đó là tâm lý kẻ bị trị, kẻ yếu muốn thắng lại kẻ trị mình, thắng kẻ
mạnh hơn mình bằng lối đánh tập hậu. Còn Trạng Lợn là vế bằng, dốt nát và lười
biếng nhưng gặp may. Đó là một chút huyễn tưởng thường thấy của các cư dân tiền
công nghiệp.
Những
di sản tinh thần trên ngày nay không phải đã hết. Nó có thể tồn tại ở dạng
nguyên baản hay dạng biến tướng. Xin lấy một ví dụ, tiểu thuyết “Số đỏ” của Vũ
Trọng Phụng, ngoài những mặt tích cực của nó, cũng mang nhiều tính chất huyễn
tưởng của con người nông dân trong thời đại đô thị hóa, dù là đô thị thuộc địa.
Một mặt đó là phản ứng chống lại mọi sự cách tân của đô thị, mà bước đầu khó
tránh khỏi sự lố lăng, mặt khác là tham vọng chinh phục cái thế giới đô thị xa
lạ đó bằng những tình cờ may mắn, bằng số đỏ.
Còn
trong đời sống người nhật hiện nay, phản ứng trước những thế lực bảo thủ nào
đó, vẫn thường là những câu chuyện vui, những tiếu lâm hiện đại, những lời chửi
đổng. Từ nói vỉa hè, quán nước, trên xe, trên tàu đến các phòng khách sang
trọng, hành lang hội nghị người ta đều kể truyện cười. Người kể như được tháo
khoán sự ấm ức của lòng mình, người nghe như được ai nói hộ cũng sự ấm ức của
lòng mình. Người nghe và người kể cùng hể hả. Cười. Ấm ức được giải tỏa. Người
ta thấy lòng mình được yên ổn hơn. Thế rồi ai lại vào việc ấy.
Cuộc
sống cứ thế trôi đi. Mọi việc đều chấp nhận một cuộc sống như vậy. Chấp
nhận do nhận thức được tất yếu, dù chỉ là cái tất yếu của tư duy. Mà một khi
nhận thức được tất yếu thì con người được tự do. Một thứ tự do trong chấp nhận.
Điều này thể hiện rõ nhất trong chuyện viết lách. Viết thì phải lách, lách để
mà viết.
Nhưng
đáng nói hơn là đằng sau lối ứng xử này là tâm lý phò chính thống. Tôi chửi xỏ
họ ngoài mặt mà trong thâm tâm tôi vẫn muốn được trở thành như họ, hoặc chí ít
cũng được họ đóng dấu xác nhận vào diện mạo của mình. Một miếng giữa làng bằng
một sàng xó bếp. Áo gấm về làng ban đêm thì ăn thua gì!
Đến
đây ta cũng thấy rõ hơn Trạng Quỳnh và Trạng Lợn tưởng khác nhau một mực một
trời mà hóa ra lại là một thứ nhị vị nhất thể của tâm lý dân tộc. Như hai quả
núi nếu nhìn ở bề mặt hữu thức thì một nở nơi này, một ở nơi kia, nhưng nhìn
vào những tầng sâu địa chất vô thức, ta mới ngớ ra là chúng cùng một sơn hệ.
Những
di sản tâm lí đó sẽ níu chân người Việt bước vào hiện đại hóa đất nước. Sự thức
nhận hiện nay là, chỉ khi sòng phẳng với quá khứ, tức thẳng thắn vạch ra để mà
khắc phục những hạn chế tâm lý dân tộc, những chiếc cùm lim (chân có đế), những
vòng xích sắt (vẫn còn vương) thì mới có thể nhẹ gót tương lai.
Trích
“Phân tâm học và tính cách dân tộc”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét