Lương Cần Liêm, Tiến sĩ tâm lý học, Bác sĩ tâm thần.
Giảng viên Đại Học Paris 13.
Chủ tịch Hội Pháp-Việt Tâm-thần và Tâm-lý Y Học (Paris).
Giảng viên Đại Học Paris 13.
Chủ tịch Hội Pháp-Việt Tâm-thần và Tâm-lý Y Học (Paris).
đình làng Thổ Tang (Vĩnh Phúc) |
Tôi định nghĩa tâm lý học là bộ môn nghiên cứu hoạt động tâm
và trí con người.
Khi đóng khung một địa bàn tìm hiểu, nhà nghiên cứu đối chiếu
qui luật tổng quát của bộ môn với lô gích nội thể của nó. Về hoạt động khoa học,
chúng ta gặp tính chủ quan và khách quan của hai người trong và ngoài cuộc,
cùng với hai lô gích nội bộ của sự khách quan và sự chủ quan mà tự bộ môn tạo
ra trong một bố cảnh chánh trị, xã hội và văn hóa nhất định. (Xem Karl Popper, The
logic of Scientific Discovery, 1959 & Thomas Samuel Kuhn, The structure of
Scientific Revolutions, 1962). Nói như vậy, con người là điều kiện, vật liệu và
yếu tố duy nhất và tiên khởi của tất cả mọi sáng chế của cuộc sống, tạo ra quan
niệm đời, kinh tế, khoa học, tôn giáo, vật chất, của cải, xã hội, lý tưởng. Con
người tạo ra sản phẩm cụ thể và vô hình mà chính vì vậy loài người thành tập thể
sống theo các sản phẩm ấy như một thường lệ; mỗi người tự nhận mình là một vật
thể xã hội theo qui luật của nó.
Trong quan hệ điều trị, chủ quan và khách quan tréo với nhau
hai lần giữa người và người và giữa người với bộ môn. Ta gọi đó là hiện tượng chuyển
cảm (transfert) trong ban giao. Hiện tượng này cần cân đối với hiện tượng phản
cảm chuyển (contre transfert) để đạt một thăng bằng trong trao đổi tâm và trí,
cho phép đôi bên giử sáng suốt. YÙ thức cái tréo đôi ấy giúp công tác điều trị
đạt một vị trí trung dung, có thế phê chuẩn và phê bình trong tính trung lập, gọi
là trao đổi -- trao rồi đổi chứng kiến -- giữa hai đối tác không có sự áp đạt
tâm lý của người đứng ngoài cuộc có hiểu biết chuyên môn, trên người đứng trong
cuộc phải chịu xào những khó khăn của mình.
Dụng cụ nghiên cứu tâm lý là ngôn ngữ và cách phát ngôn.
Trước tiên là xem hai điểm quan trọng như sau.
A.- Từ Psychologie của văn hóa phương tây có nghĩa là môn học
: -- logie ; Psyche -- là tất cả hiện tượng của trí cho phép định chế cá thể
con người như mình xem mình trong một tấm gương đứng (psyché). Chúng ta dùng chữ
Tâm lý học. Trong gốc hán nôm quốc ngữ, " Lý " có hai nghĩa không xa
với nhau : một là lý luận và hai là lý do. " Tâm lý học " là bộ môn
nghiên cứu luật tâm lý và nguyên tắc tình cảm làm con người sống có văn hóa. Ta
tượng trưng cái đó bằng trái tim. Lúc xưa, người phương tây không rành chuyện
cho rằng người phương đông không phân biệt tâm và trí, trái tim và bộ não nên họ
nghĩ rằng người việt nam dùng chữ tâm lý như thoái tả cảnh thô sơ, một cách nói
để nói. Nếu ta suy nghĩ theo họ thì phương đông chưa từng biết " hoạt động
nội tâm " là gì. Ta tiếp tục xem ngành này mới sanh ra đời gần đây mà
thôi. Họ không biết rằng chữ tâm không phải là trái tim : tâm là một hình ảnh,
là cách nói ẩn dụ (métaphorique), bóng gió, trừu tượng để mô tả con người là một
thể chất vừa có trí, vừa có thân, vừa có cảm xúc. Con người vốn là người tình cảm
và đạo đức -- ta gọi là người có lương tâm --, dùng lý trí để phục vụ mình, thấu
hiểu mình, giải thích mình, kế hoạch hóa mình.
Chú ý các điểm này là để hiểu bối cảnh văn hóa của từ ngữ ta
dùng, không rơi vào một số bẫy khi thấy một vấn đề xã hội mới, tưởng chừng như
có một ý niệm tâm lý một mới. Ví dụ " nghiện games ". Chúng ta tránh
lạm dụng " danh từ mới " ví dụ như từ " trầm cảm " mà dân
gian đã biết " bệnh buồn-buồn " hoặc " bệnh buồn vô cớ ". Từ
" dépression " xuất hiện ở phương tây vào những năm 1970. Đây một từ
lấy trong bộ môn khí tượng thời tiết nói về sức áp trời xụt xuống độ thấp, giống
giống như ta nói " mất khí sống " vậy. (Thật vậy, người có tánh nết
trầm lặng là người trầm cảm ngầm mà họ không biết chăng ?).
B.- Trong lịch trình chuyển tiếp tiếng quốc ngôn sang chữ quốc
ngữ, người việt nam hết dùng chữ hán nôm để ghi lại tiếng nói của mình. Như thế,
con người thay đổi tư duy và cách nhìn thực trạng của cụ thể. Mặt khác, các từ
ngữ có khi lại mất nguyên gốc của nó.
Tôi xin có vài ví dụ cùng với một số vấn đề dịch thuật :
1. Chữ Ái (yêu) là chữ ghép trong hán nôm : Nữ + Nhi. Mô
hình tình ái là tình cảm giữa bà mẹ và con trẻ chớ không phải giữa nam và nữ.
Như thế là đủ để suy nghĩ đến quan niệm văn hóa về tình, sự khác biệt giữa tình
cảm, tình dục, tình yêu, tình duyên (mà tiếng pháp chỉ có một chử aimer, tiếng
anh hai chữ to love và to like).
2. Chữ Gian (tánh gian tham) là ba chữ nữ ghép với nhau
trong hán nôm. Thế thì ngày xưa, 3 phụ nữ chung với nhau thì có vấn đề gì ?
3. Chữ Không gian dịch ra là Espace (Space tiếng anh). Gian
(như gian nhà) là một khoảng : Không gian là một khoảng trống, trong khi đó từ
Espace là một khoản đầy. Thời gian là đơn vị thời điểm chụm lại trong khi đó từ
Temps (Times) là một khoản thời kéo dài duy nhất. (Xem François Jullien : du
Temps, Paris, Grasset, 2001, có dịch ra tiếng việt).
4. Trong lúc chuyển sang quốc ngữ, một số ý nghĩa đã biến đổi.
Ví dụ : Đạo có nghĩa là con đường dẫn lối trong triết học trừu tượng, nay là
tôn giáo. Ví dụ : Kinh trước có nghĩa là quyển sách giáo khoa của người dạy người
(Đạo Đức Kinh, hay Tứ Kinh), nay là một lời thánh của Chúa -- hoặc người cao
thượng -- ban xuống cho chúng sinh, từ lúc ông cha Jean-Louis Taberd
(1794-1840) http://en.wikipedia.org/wiki/Jean-Louis_Taberd
- cite_note-1 dịch oratorio = kinh. In : Dictionarium Anamitico-Latinum, J.
L. Taberd, Serampore,1838.
5. Ý niệm " hạnh " thiệt ra không có tương đương ở
phương âu. Chữ " đức " được dịch tiếng pháp là vertu (tiếng anh là virtue)
; ngược của vertu là vice (a : vice) tức là dâm trong khi đó, " thất đức
" (không có đức hoặc hết đức) không bao giờ có nghĩa là dâm tính, hay dâm
dục.
Bốn cực tâm lý văn
hóa người việtnam
Trong quá trình phát triển văn minh nhân loại đến giai đọan
toàn cầu ngày nay, chúng ta nhận xét 3 vùng địa danh chánh : văn hóa địa trung
hải (do thái, hy lạp và la tinh, rồi á rập), văn hóa ấn độ và văn hóa phương động
quanh cái trục trung hoa. Cùng một lúc, vào 5 thế kỷ trước công nguyên, ở phía
tây có 3 vị Socrate, Platon, Aristote ; và phía đông, Gautama Phật, Lão Tử và
Khổng Tử.
Theo ý tôi, tâm lý người việtnam nhận bốn nguồn văn hóa
chính. Gần đây, có sự ảnh hưởng của đạo Công Giáo có việtnam hoá, tương đối mới
nên tôi không đề cập ở đây.
1. Từ phía nam, văn hóa mélanésia đề cao giá trị phụ nữ qua
chế độ mẩu hệ còn tồn tại trên nhiều nơi. Ví dụ dùng chữ mẫu vừa là gương, vừa
là mẹ (gốc hán nôm viết khác nhau). Những gì quan trọng là chiếu theo nữ giới :
cái cổng cái, con sông cái (sông lớn), điện thoại mẹ (điện thoại góc của điện
thoại bàn)...Nói như vậy, phải xét quan điểm Freud về vai trò nữ giới trong tâm
lý, một cách tương đối so với văn hóa. Từ phía nam, tâm lý người việtnam cũng
có ảnh hưởng của Ấn độ giáo. Cái gì có cấu tạo (Visnu) là có gốc phân ly
(Shiva), ấy là biến chuyển của mọi việc (Brama). Có đoàn kết là có khác biệt,
có khác biệt thì cần đoàn kết, sức sống biến đổi vừa đoàn kết, vừa khác biệt và
cứ mãi mãi như thế mà mọi việc mới sẻ đến như nước không động.
2. Từ Ấn độ giáo ra Phật giáo mà tôi trình bày ở đây triết học
con người. Tôi xin nói đến 3 đề.
A) Nhân quả (Karma) là thành quả của nhân loại. Chúng ta có
thể xem đó là vốn văn hóa mà cả nhân loại đã tích lủy cho từng người chúng ta
hưởng khi ra đời ; cái vốn này -- nghiệp -- tương đương với vốn ADN trong tế
bào. Vốn tốt là sự nghiệp phát sinh tốt, vốn không tốt thì kết quả chưa đến chờ
người lọc nó (nghiệp chướng). Nói cách khác, đây là tâm lý nhận thức, trách nhiệm
và bồi dưỡng. Con người có " số phận " nhận vốn loài/làm người, rồi
" bổn phận " bảo tồn và quản lý nó để phát huy, khai triển thành công
một cuộc sống hiện thực. Mục đích làm tốt và chuyển cái tốt đó cho thế hệ mai
sau. Tâm lý phương tây gọi kế thừa văn hóa và tâm lý giáo dục đó là héritage
trans générationnel (kế thừa xuyên thế hệ). Sự ẩn núp của Nhân quả gần ý niệm
Vô thức (inconscient) nhưng điểm dứt khoát không giống là tính chất hoàn toàn đạo
đức của Nhân quả, khác với cái " Vô thức " của Freud.
B) Đời là đau đớn. Con người có thể giải thoát khỏi cái khổ
đó khi hết lệ thuộc quá đáng bởi những nhu cầu do sự vật và sự kiện tự mình tạo
ra. Cái đau đớn đó do con người chưa nhận thức và giác ngộ là tất cả cái gì, tất
cả những vật gì đều có thực nhưng tất cả điều Vô Thường, tức là có thay đổi thường
xuyên, luân chuyển đổi dạng rồi hiện ra cái khác. Đau đớn là do bám vào sự cố
không cho nó biến chất. Cái Tôi hôm nay không phải là cái Tôi hôm qua mà chưa
phải cái Tôi ngày mai. Tôi là tôi nhưng không phải là tôi : cái Tôi cơ bản là gốc
Phật có trong tôi và cho tôi biến thành người tốt. Nếu ta sắm chiếc xe thì ta
phục vụ nó bằng cách đổ xăng không ngừng. Ta có cảm giác tự do di chuyển nhưng
thật sự cái tự do đó bị ràng buộc nơi có tiền đổ xăng. Do đó, thuyết sung sướng
của Freud chủ trương nguồn gốc con người là ham muốn và sự đau đớn là hậu quả của
tội lỗi, của thiếu thốn.
C) Luật luân hồi (Samsara) là qui luật chứng minh rằng hiệu
quả của mọi hành động, mọi hành vi sẽ là nguyên cớ cho hành động, cho hành vi kế
tiếp của mình và cứ như thế mỗi hồi luân chuyển. Đây là nói tương quan biện chứng
giữa nguyên nhân và kết quả -- tức là nhân duyên -- mà cũng cứ như thế, thế giới
tiến tới, hoặc tốt, hoặc xấu. Kết quả của sự ham muốn là động cơ thêm ham muốn,
kết quả của thiệt thòi là chịu thêm thiệt thòi. Tâm lý phương tây gọi đó là compulsion
à la répétition. Thuyết nhà Phật giải đáp vấn đề này bằng quan niệm bình đẳng
nói rằng mỗi người đều có gốc Phật bằng như nhau, không ai kém hơn ai trên đường
Niết Bàn. Người sẽ thành vị Bồ Tát khi giác ngộ rằng hiệu quả và nguyên cớ phải
mang tính đạo đức và vượt ra khỏi vòng mù ám của người vô thức, tức là người
không biết luật vô thường của thiên hạ sự mà lặp tới lặp lui cái trạng thái của
mình như người đi trên đường mòn. Luật luân hồi diễn tả tâm lý người bình thường,
có muốn thì muốn thêm để đạt một thiêng liêng " đầy " như mình đã
tính, chống cái thất vọng và cái khổ sẽ đến khi thiếu thốn.
Theo phương tây, nguồn gốc tâm lý con người là cái Tôi (Ego)
thật " đầy " ; càng chắc chắn, càng nhiều tình thương, càng giàu sang
là càng tốt. Theo Nhà Phật, cái Tôi là " Vô Ngã " (ngã = ngộ = tôi).
Đây không có nghĩa là cái Tôi không có, vì nếu không có thì làm sao chúng mình
gặp nhau, có lời nói chuyện với nhau. Cái Tôi Vô Ngã có nghĩa là có như không,
không như có, thật mềm dẻo ; có nghĩa là khi Tôi là tôi, tôi đã biến đổi thành
một cáí Tôi mới so với cái tôi của lúc trước và cũng mới so với cái gì bạn đã
nghĩ về tôi. Mỗi chốc lát biến đổi là mỗi lần tôi thành một người mới nhưng tôi
không biết vì tôi vẫn giử tánh cũ, lời cũ, ý niệm cũ : cái " cũ " cho
tôi được yên trí, yên tâm. Đấy là thuyết " Có như không, không như có
" gọi là thuyết " Không không ". Nói cách khách, Vô Ngã là
" muôn cuộc sống trong một đời ". Mỗi lần thay đổi, là mỗi lần biến dạng
; và cứ như thế là mỗi lần ta đạt tới một tột đỉnh cao mà ta gọi là Niết Bàn của
chốc lát. Mỗi lần yên tịnh trầm lặng đổi dạng, là mỗi lần bước qua một ải Niết
Bàn mới, và cứ như thế đời là một xâu chuỗi. Con người trong lúc đó hết mâu thuẩn
xung đột, hết do dự với chính mình, sống trọn vẹn thời khắc của cuộc sống.
Về nhân loại học (anthropologie), ý niệm triết học "
muôn cuộc sống trong một đời ", đã chuyển sang khái niệm tôn giáo " đầu
thai muôn kíếp " (đầu thai xuất thể) chuẩn bị vào Niết Bàn sau khi cải thiện
Nhân quả.
Ông Parménide (515- 440 trước c.n.), là nhà triết học Hy Lạp
trước Socrate. Ông khởi tiên là người ghi 5 bộ giác để con người giao dịch với
thế giới bên ngoài : cặp mắt, cái mũi, cái lưỡi, cặp tai, bộ da (in : De la
Nature). Từ quan điểm đó, cảm giác, cảm nghĩ và cảm tình con người cần bộc lộ
qua lý trí và lời lẽ. Cái gì cũng phải nói ra, nói cho được, nói cho hết (Thậm
chí bất kể người trước mặt).Theo phương đông, người có 6 giác : 5 giác ghi trên
cộng thêm trí giác. Vị trí trí giác là ngang hàng với những giác kia nên con
người có thể cảm xúc trực tiếp mà không nhất thiết cái gì cũng nói, hoặc khi
nói thì không bao giờ nói hết lời, được hiểu 100%. Do đó, có nhận xét rằng người
Á và người Âu không giống nhau về cách nói cảm xúc của mình, về cách sống với
thiên nhiên và suy luận phân tích nhân duyên, cách nói.
3. Có một chuyện rất xưa cùng lúc với ý thức khác biệt của
nhân loại, là quan niệm vũ trụ là Một nhưng có hai phần. Trong văn hóa phương
đông, Đạo Đức Kinh của Lão Tử là quyển nhập ý niệm Âm Dương thành một hệ thống
luận nói đến quan hệ biện chứng của mọi việc, tức là cách định nghĩa mặt này là
định nghĩa mặt kia : có trên là có dưới, có nam là có nữ, có ban sáng là có ban
tối... Tách rời không phải riêng biệt.
Một sanh ra Hai (âm và dương), Hai sanh ra Bốn (trong âm, có
âm và có dương ; và trong dương, có dương và có âm) và cứ như vậy mà vũ trụ nở
sinh. Trong nam có phần nữ, và ở nơi người phụ nữ có tánh nam giới. Hai, Bốn,
Mười Sáu hoặc Một trăm năm mươi sáu vẫn là Một đơn vị Số tròn nguyên thủy. Nói
cách khác, vũ trụ là Qui luật Số : khởi đầu là Big Bang của vật lý học, không
có Nguời cấu tạo (vì ta chấp nhận không biết nhưng nếu nói theo Công giáo là
Chúa). Do đó, con người sống theo nhịp của ba qui luật Số (nghĩa rộng hơn ý niệm
phương tây numéro/number) : Số Trời diễn tả cái thường xuyên của thời tiết,
sáng tối, gió mùa ; Số Người ghi mạng theo ngày giờ sanh con người (số Tử Vi)
chủ động như một thành viên của vũ trụ thiên nhiên ; Số Thứ Tự ghi trật tự
gia-đình, xã-hội, con số mà ta dùng để tổ chức, làm (số kế) toán, làm sổ sách kế
hoạch. Như thế, qui luật số gắng liền mạng người với sự nghiệp của môi trường,
khoa học gọi đó là Ecologie/Ecosysteme. Vì xã hội là một vũ trụ hẹp, loài người
ở bất kỳ văn hóa nào đều đánh giá mình bằng hai khuynh hướng. Một là khách quan
hóa việc này hay việc kia bằng con số bao nhiêu phần trâm (% cảm giác hạnh
phúc). Khuynh hướng này đưa đến suy nghĩ khoa học. Hai là đánh giá chủ quan của
mình bằng cảm súc hên xui may rủi (số tốt, số xấu, tới số�). Khuynh hướng này đưa đến suy
nghĩ chính trị và tôn giáo. Chính vì trong xã hội loài người, cảm xúc lờ mờ có
" qui luật số " có nên Nhà Nước ở các quốc gia đều tổ chức " xổ
số " (loterie/loto) trên hy vọng của người dân được " trúng số
". Đây là một hình thức thâu thuế (" Số mạng " là một quan niệm
về bản thân mà ta cần hỏi người đến khám bệnh, nghĩ sao về chính họ).
Về mâu thuẫn, nhà triết học đức E. Kant (1724-1804) nói có
hai loại : mâu thuẩn đối kháng và không đối kháng, tùy định nghĩa chuẩn do người
thông đồng với nhau. E. Kant nghĩ rằng mâu thuẫn không bao giờ tuyệt đối với
nhau (cũng như mọi sự). Về phương đông, mâu thuẫn không có quan hệ chạm trán,
không mặt thắng mặt thua : mọi nhân tố đều bên cạnh hỗ trợ giúp nhau để mỗi lần
mở rộng sự thật thêm rộng lớn hơn. Muốn nước chảy phải có độ trên và độ dưới ;
có buổi sáng là có buổi tối, rồi sáng tối không mâu thuẫn đối kháng với nhau ví
sáng hay tối đều có ánh mặt trời và mặt trăng. Nam với nữ không đối kháng vì cả
hai đều là con người. Việc này có là nhờ có việc kia xác định cho, chớ không phải
định nghĩa bằng sự thiếu thốn, thèm thùa, ghen ghét, xung đột. Ngược lại, theo
thuyết Freud, nam và nữ là hai diện đối kháng và cạnh tranh. Quan niệm này là kế
thừa quan niệm đạo Công Giáo về tội và lỗi.
Như vậy, ý niệm âm dương thường xuyên hiện lên trong lời lẽ
và đời sống hàng ngày.
* Có sinh mới có sống, mà sống không chế tạo là không đầu
tư, là không toàn diện, không động cơ ; do đó ta dùng chữ đôi âm dương : sinh sống.
* Cả nước Việtnam vào ngày Tết là đếm theo âm lịch ; bắt đầu
là ngày 25 tết đến mùng 10 tết, cũng ta " quên " tháng dương lịch đi.
* " Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nuớc trong
nguồn chảy ra ", đấy là tinh thần, lối suy nghĩ âm dương cân đối với nhau
qua những cập từ : cha và mẹ, công và nghĩa, núi và nước hay đất và nước. Nói
tóm lại, tâm lý phân tâm học (psychanalyse) lấy xung đột làm khâu của tất cả
quan điểm cuộc sống. Trong khi đó, tâm lý truyền thống á đông hiểu rằng xung đột
và tranh chấp không nhất định là sự kiện của bình hòa ; nếu chỉ biết tìm ai có
lý hoặc ai không có lý thì chỉ sống trong xung đột, nghi vấn ; người ấy đã lầm
lẫn nguyên tắc với nội dung.
4. Cột trụ thứ tư của tâm lý Á-đông là Nho Giáo. Đương nhiên
là về mặt lịch sử xã hội, chúng ta không quên Nho giáo đã là cơ sở tư tưởng của
chế độ phong kiến, nhưng chúng ta cũng không thể dùng một tư tưởng hệ để bài trừ
nghiên cứu Nho Giáo.
Lời của Khổng Tử được ghi lạy trong một quyển sách duy nhất
viết 300 năm sau khi ông mất. Những nhà nho giáo về sau, như Mạnh Tử, cho thêm
ví dụ nhưng không bao giờ có ai định nghĩa thế nào là nhân, là nghĩa, là lễ, là
trí và là trung. Vì đó là triết học nên chỉ nói đến ý nghĩa chớ không thể nào
có qui định nội dung một cách vĩnh viễn cái gì là cái gì. Từ đó, các nước á
châu đều có được một quan niệm văn hóa đạo đức công chúng cho xã hội dân sự, gần
giống nhau cho cả miền phương động.
Cho hôm nay, tôi chỉ nhắc giá trị tâm lý của thuyết Ngũ Đức
: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Trung. (Một số sách việt nam ghi : nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín. Qua sưu tầm của tôi, từ hán nôm gốc là Trung. Trong triều Gia-Long, vấn
đề người trung và người tin cậy là một chuyện lớn mà có thể từ đó, chứ Tín đã
thay thế chữ Trung).
Trong Đạo làm Người (Nhân), mỗi người phải tìm ra đường chân
lý của mình. Tâm lý học nói đây là một vấn đề rất to lớn. Con người phải ý thức
trách nhiệm của mình, thế nào là tự do suy luận để sống phù hợp với cộng đồng của
mình. Nói cách khác, Nho Giáo khẳng định rằng không bao giờ có một tự do tuyệt
đối (như muốn là được). Ngược lại, con người tạo điều kiện tâm và trí cho tự do
chỉ nhận giới hạn của phương pháp lý luận học, tức là chỉ có giới hạn của lô-gích
(ý niệm mới, chữ mới). Chính nhờ văn hóa này mà cả nền văn minh phương đông tồn
tại, biển đổi và hấp thụ văn minh phương tây tràn vào từ thế kỷ 19 đến nay.
Về mặt tâm lý, trước tiên là Trung : trung kiên, liêm sỉ với
chính mình và thích hợp với bối cảnh sống ; sau đó là Trí : lấy cái sáng suốt
mà phân tích, phản hồi, suy nghĩ, bình luận ; tiếp theo là Lễ, tức là luận ra
luật nội tâm, nguyên tắc xã hội, điều lệ và thói quen ; sau nữa là Nghĩa tức là
tìm ra ý nghĩa và nghĩa vụ trong các việc của cuộc sống rồi cuối cùng thành Nhân,
tức là thành Người Hiền, hết là tiểu nhân xem mọi việc một cách hẹp hòi, ích kỷ,
cục bộ.
Cách dẫn Đường là Hiếu thảo và Thương con, phù hợp với truyền
thống Thờ Cúng Ông Bà và Lễ đám giổ và một số tục lệ khác ; chớ nên gọi tất cả
là mê tín dị đoan. Cơ sở là tình thương hai chiều trên dưới trong gia đình ;
tránh lạm phép tình cảm dùng sức ép tinh thần của người lớn, có quyền hạn để
hành hạ người nhỏ, người thấp, người trẻ ; nam ép nữ theo kiểu phong kiến gia
đình mà gọi đó là truyền thống. Thật vậy, quan niệm á đông gia đình là một xã hội
nhỏ nối liền và tập sự cho con người vào xã hội thực vô danh, trong khi đó
phương tây quan niệm có một dứt đoạn giữa cá thể và tập thể, giữa gia đình và
xã hội.
Như vậy, tâm lý phục vụ nhu cầu vào khuôn và khuông của con
người có quan niệm lý tưởng [khuôn] và cụ thể [khuông] về đạo đức sống. Do đó,
khi điều trị tâm lý, chúng ta sẽ đồng hành với người đau khổ để giải bài xung đột
tâm lý giữa nhu cầu tự do nội bản với điều kiện tự do bên ngoài ; xung đột giữa
lý tưởng và hiện thực, giữa trung kiên và sáng tạo ; xung đột giữa cái sự thật
và cái thật sự ; xung đột thời gian giữa thế hệ, giữa cái sợ và những gì chưa
biết.
Kết luận
Tâm lý học là bộ môn khoa học nhân văn gắn liền con người với
môi trường sống, xã hội và lịch sử văn minh. Do đó, nghiên cứu tâm lý là nghiên
cứu quan hệ cấu tạo một thân với một thể thành một đơn vị tâm trí gọi là con
người, có tìềm năng nghiền ngẫm nội tâm và xây dựng kế hoạch tương lai riêng
cho cá thể mình, và phù hợp với tập thể và lý tưởng.
Một trong phát minh tâm lý điều trị là phân tâm học. Chúng
ta cần xem đây là một thuyết nằm trong lòng văn hóa tây phương cá nhân chủ
nghĩa ; do đó thuyết này ít đề cập đến yếu tố tập thể, con người đứng xa yếu tố
xã hội. Biết như vậy, sự đối chiếu Âu Á phải là một đối chiếu văn hóa để xem thế
nào là tâm lý nội tâm con người việt nam. Dương nhiên, nếu ta xem con người như
một bộ máy thì môn tâm lý sẻ nghiên cứu một máy tâm lý, ví dụ như tâm lý thương
mại người tiêu dùng. Lúc đó, ta nghiên cứu hành vi, một khía cạnh nhỏ của
nghiên cứu tâm lý con người tổng quát. Cũng như chỉ chữa bệnh tâm thần bằng hóa
chất mà thôi. Tỉa ngọn mà không nuôi tưới gốc thì rất nguy. Ngược lại, nhờ
phương pháp học mới này, nhà tâm lý học là người tư vấn chuyên nghiệp, giúp con
người tự tìm hiểu chính mình và tìm ra cách thích ứng tối đa với môi trường sống,
thoát khỏi các loại " tâm lý " dạy đời, giáo huấn.
Khi ta hiểu kho tàng văn hóa của ta là một văn minh có giá
trị thì ta không sợ mất bản sắc và đặc thù truyền thống của ta, trở thành người
tiếp thu dể dàng văn hóa từ xa đến. Như vậy có thể nghĩ gọn rằng nền tản tâm lý
người việt nam rất đa dạng tổng hợp, trong đó vốn Phật Giáo đã nói đến tâm lý nội
tâm, Lão Giáo dùng đề nói quan niệm vũ trụ, và Nho Giáo bàn về đạo đức con người
xã hội.
Có khi tôi tự hỏi một câu : tại sao chúng mình có rất nhiều
từ phong phú như " Hồn ", " Vía ", " Ma ", "
Bống ", " Linh ", " Tâm ", " Trí "... mà
phương tây chỉ một chữ Psyche duy nhất ? Có lẽ người tây phương không quan niệm
có trí giác giống như người mình.
Tôi hy vọng rằng hội thảo hôm nay của chúng ta đã đưa đến
quí vị, sự hâm mộ nghiên cứu và phát huy một ngành tâm lý học việtnam hiện đại,
khoa học, hữu dụng và nhân tâm.
(Bài này đi đôi với bài tiếng pháp, không phải bài dịch)
Tác giả đã viết những sách sau đây (hoặc cộng tác viết):
- Colloque INSERM-Autisme, Paris, Volume 146, 1987 (ouvrage
collectif).
- Bouddhisme et Psychiatrie. Paris, Edt L'Harmattan, 1992.
- Enfance : état de lieux. Le Vietnam au coeur de la Francophonie.
Paris, Edt L'Harmattan, 1998. (Ouvrage collectif).
- Dictionnaire des thérapeutiques médicopsychologiques et psychiatriques. Ouvrage collectif sous la direction de H.N. Barte. Paris, Edt Ellipse, 2001.
- Psychologie politique de la citoyenneté, du patriotisme, de la mondialisation. Paris, Edt L�Harmattan, 2002.
- Psychothérapie bouddhique : méditation, éthique, liberté. Paris, Edt L'Harmattan, 2002.
- De la psychologie asiatique. L'Humain, le Politique, l'Ethique. Paris, Edt L'Harmattan, 2004.
- Sổ tay tâm lý học (Manuel de psychologie médicale). Ho Chi Minh ville, Edition Nha Xuat Ban Y Hoc, 2005. Ouvrage collectif en vietnamien sous la direction du Prof Isidor Pelc et du Dr Lam Xuan Dien. Dans le cadre de la Coopération Interuniversitaire Francophone du Développement de la Belgique avec le Centre Universitaire de Formation des personnels de santé. 730 pages.
- Manuel de psychiatrie transculturelle, 2e édition. Ouvrage collectif sous la direction du Prof. M.R. Moro, Grenoble, La Pensée Sauvage, 2006.
- Psychologie transculturelle et psychopathologie. Occident et Asie orientale. Paris, You Feng, 2006.
-Conscience éthique et esprit démocrate. Essai sur l'harmonie et le politique. Paris, L'Harmattan, 2009.
- Bouddhisme et Psychiatrie. Paris, Edt L'Harmattan, 1992.
- Enfance : état de lieux. Le Vietnam au coeur de la Francophonie.
Paris, Edt L'Harmattan, 1998. (Ouvrage collectif).
- Dictionnaire des thérapeutiques médicopsychologiques et psychiatriques. Ouvrage collectif sous la direction de H.N. Barte. Paris, Edt Ellipse, 2001.
- Psychologie politique de la citoyenneté, du patriotisme, de la mondialisation. Paris, Edt L�Harmattan, 2002.
- Psychothérapie bouddhique : méditation, éthique, liberté. Paris, Edt L'Harmattan, 2002.
- De la psychologie asiatique. L'Humain, le Politique, l'Ethique. Paris, Edt L'Harmattan, 2004.
- Sổ tay tâm lý học (Manuel de psychologie médicale). Ho Chi Minh ville, Edition Nha Xuat Ban Y Hoc, 2005. Ouvrage collectif en vietnamien sous la direction du Prof Isidor Pelc et du Dr Lam Xuan Dien. Dans le cadre de la Coopération Interuniversitaire Francophone du Développement de la Belgique avec le Centre Universitaire de Formation des personnels de santé. 730 pages.
- Manuel de psychiatrie transculturelle, 2e édition. Ouvrage collectif sous la direction du Prof. M.R. Moro, Grenoble, La Pensée Sauvage, 2006.
- Psychologie transculturelle et psychopathologie. Occident et Asie orientale. Paris, You Feng, 2006.
-Conscience éthique et esprit démocrate. Essai sur l'harmonie et le politique. Paris, L'Harmattan, 2009.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét