NGUYỄN VĂN TUẤN
TTCT - Tình trạng thiếu bác sĩ ở Việt Nam, đặc biệt ở các
vùng như đồng bằng sông Cửu Long, rất nghiêm trọng và đã kéo dài nhiều năm, nên
không ngạc nhiên khi các quan chức muốn mở rộng các chương trình đào tạo y
khoa.
Nhưng cũng như bất cứ ngành nghề nào, số lượng và phẩm chất
là hai khía cạnh rất khác nhau. Trong ngành y, vì liên quan đến tính mạng của
con người nên phẩm chất đào tạo - chứ không phải số lượng - cần phải xem là ưu
tiên hàng đầu.
Tuy nhiều người phàn nàn rằng Việt Nam thiếu bác sĩ, nhưng
con số thực tế cho thấy một bức tranh khác. Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế
giới, ở Việt Nam cứ 10.000 dân thì có 12 bác sĩ. Con số này tương đương (hoặc
cao hơn) so với Thái Lan và Malaysia nhưng thấp hơn so với các nước châu Âu
(khoảng 40 bác sĩ/10.000 dân).
Tuy nhiên, tình trạng thiếu bác sĩ ở vùng đồng bằng sông Cửu
Long có thể xem là nghiêm trọng: trung bình 10.000 dân trong vùng đồng bằng
sông Cửu Long chỉ có khoảng 6 bác sĩ, tức chỉ bằng phân nửa tỉ lệ quốc gia.
Trước tình hình thiếu bác sĩ và nhu cầu chăm sóc sức khỏe
trong cộng đồng, không ngạc nhiên khi các quan chức nóng lòng đào tạo nhiều bác
sĩ để đáp ứng nhu cầu. Nhưng cũng vì sự hấp tấp này mà một số chương trình đào
tạo y khoa ở đồng bằng sông Cửu Long được xem là “không giống ai”.
Thật ra, có thể nói rằng hầu hết chương trình đào tạo y
khoa, nhất là sau đại học, của Việt Nam cũng khác với thế giới. Tôi nghĩ có thể
xem mô hình đào tạo bác sĩ ở Úc như một điểm tham khảo, vì chương trình đào tạo
bác sĩ của họ được đánh giá cao (chương trình y khoa của Đại học New South
Wales và Sydney nằm trong “top 50” trên thế giới).
Hai mô hình đào tạo
Ở Úc, chương trình đào tạo bác sĩ cấp đại học thường theo
hai mô hình chính. Mô hình thứ nhất tạm gọi là “mô hình cử nhân”: học sinh tốt
nghiệp THPT xuất sắc được tuyển chọn qua kỳ thi có tên là UMAT (Undergraduate
Medicine and Health Sciences Admission Test) và phỏng vấn cá nhân.
“Xuất sắc” ở đây có nghĩa là điểm tốt nghiệp THPT phải ở mức
99-100%. Sinh viên được tuyển thường theo học 5-6 năm (tùy trường) và tốt nghiệp
với bằng cử nhân y khoa và cử nhân phẫu thuật (MBBS). Nhưng bắt đầu từ năm
2011, một số trường y của Úc đã theo xu hướng chung trên thế giới và thay đổi
tên văn bằng MBBS thành M.D (tức Doctor of Medicine).
Mô hình thứ hai là mô hình sau đại học và gần đây (từ năm
2011) được nhiều trường y ở Úc ưa chuộng. Theo mô hình này, các thí sinh đã tốt
nghiệp cử nhân với hạng xuất sắc muốn theo học y khoa sẽ được tuyển chọn qua một
kỳ thi GAMSAT (Graduate Australian Medical Schools Admission Test) và phỏng vấn
cá nhân. Với mô hình này, sinh viên theo học y khoa bốn năm và cũng tốt nghiệp
với văn bằng M.D. Có thể nói mô hình sau đại học này tương đương mô hình đào tạo
y khoa ở Mỹ.
Chương trình huấn luyện cấp cử nhân (MBBS hay MD) thường được
cơ cấu thành ba giai đoạn. Giai đoạn 1 là chương trình học cơ bản (7-8 course),
như quá trình phát triển của một cá nhân, lão hóa, môi trường, xã hội và y đức.
Giai đoạn 2 là học tiền lâm sàng. Giai đoạn 3 là tập trung học về lâm sàng,
nhưng vẫn học khá nhiều môn về khoa học cơ bản và khoa học xã hội. Ba giai đoạn
học kéo dài khoảng 5-6 năm.
Sau khi tốt nghiệp M.D (hay MBBS) các bác sĩ còn phải qua
hai giai đoạn huấn luyện trước khi hành nghề độc lập. Tất cả sinh viên tốt nghiệp
y khoa phải qua ít nhất một năm làm việc dưới sự hướng dẫn và giám sát của một
bác sĩ có thâm niên cao.
Giai đoạn này được gọi là internship (thực tập) và thường
xoay quanh các khoa cấp cứu, y khoa tổng quát, ngoại khoa. Sau khi hoàn tất
chương trình internship, trên lý thuyết, bác sĩ có thể đăng ký với Hội đồng y
khoa (Medical Board) của bang và có thể hành nghề độc lập.
Nhưng trong thực tế thì hầu hết bác sĩ sau giai đoạn internship
phải qua một giai đoạn huấn luyện nội trú (gọi là resident) thường kéo dài hai
năm (cũng có khi ba năm) trước khi trở thành độc lập. Giai đoạn này có thể xem
như là sau đại học và cũng là thời gian mà bác sĩ quyết định nên theo đuổi sự
nghiệp chuyên khoa hay hành nghề bác sĩ đa khoa.
Ở Úc, đào tạo chuyên khoa thường do các trường college quản
lý. Mỗi chuyên khoa có một college (không thuộc đại học). Ở Úc có hơn mười
college chuyên khoa. Thời gian huấn luyện để thành bác sĩ chuyên khoa rất khác
nhau giữa các chuyên ngành, nhưng thường là 3-6 năm.
Trong thời gian theo học chuyên khoa, bác sĩ có danh xưng là
registrar. Sau khi hoàn tất chương trình huấn luyện chuyên khoa của các
college, bác sĩ registrar được trao chức danh fellow, và bây giờ họ đã trở thành
bác sĩ chuyên khoa (specialist). Bác sĩ chuyên khoa có thể hành nghề tư hoặc
trong bệnh viện với vai trò consultant (cố vấn).
Do đó, tính từ lúc đào tạo cấp cử nhân đến lúc hành nghề độc
lập như là một bác sĩ đa khoa, một cá nhân phải qua gần chín năm học và huấn
luyện. Để trở thành bác sĩ chuyên khoa, thời gian học và huấn luyện có thể dao
động từ 12-15 năm. Đó là khoảng thời gian khá dài so với các ngành nghề khác,
nhưng dĩ nhiên vì y khoa liên quan đến con người, nên không có sự nhân nhượng về
chất lượng và thời gian đào tạo.
Hiện nay, một số chuyên gia về giáo dục y khoa đang kêu gọi
kéo dài thời gian đào tạo bác sĩ đa khoa để đáp ứng nhu cầu sức khỏe trong thế
kỷ 21 bởi họ không chỉ cần có kỹ năng tốt về lâm sàng, mà còn phải có kỹ năng
quản lý các bệnh mãn tính và phòng bệnh từ cơ sở.
Vài suy nghĩ về chất lượng
Theo thống kê, mỗi năm các trường y VN đào tạo được 6.500
bác sĩ - một con số không nhỏ trong điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu thốn (ở
Úc hiện nay mỗi năm có khoảng 3.000 sinh viên tốt nghiệp bác sĩ đa khoa). Với
những tai nạn trong ngành y gần đây, không ngạc nhiên khi công chúng nêu vấn đề
chất lượng. Nhưng thế nào là chất lượng đào tạo trong ngành y?
Chất lượng đào tạo có thể tiếp cận từ khâu đầu vào, chương
trình đào tạo, đến khâu đầu ra. Đầu vào ngành y ở Việt Nam rõ ràng không đồng đều.
Ngoại trừ ở các đại học lớn và lâu đời thì điểm vào ngành y rất cao, còn các
trường mới mở thì điểm chưa được xứng đáng với ngành y, có trường lấy từ 13-14
điểm. Ngoài ra, tình trạng cử tuyển và đào tạo nâng cấp cũng là một vấn đề có
thể ảnh hưởng đến chất lượng ngành y.
Chương trình đào tạo ngành y ở Việt Nam (chỉ nói các trường
lớn và tương đối lâu đời) về tên gọi và danh nghĩa cũng không khác các trường ở
Úc. Nhưng trong thực tế có sự khác biệt lớn về nội dung và cơ sở vật chất. Ở Úc
và nhiều nơi trên thế giới (ngay cả Thái Lan), sinh viên y khoa học khá nhiều về
khoa học cơ bản và sinh học với thực hành trong labo, nhưng ở Việt Nam vẫn thiếu
thầy cô có kinh nghiệm và labo cho sinh viên.
Vì thế không ngạc nhiên khi rất nhiều bác sĩ Việt Nam chưa cập
nhật nổi những kiến thức cơ bản về sinh học, di truyền học, sinh hóa vốn rất
quan trọng cho ngành y.
Ngoài ra, nghiên cứu về sinh hóa ở các trường y Việt Nam còn
rất lu mờ. Số bài báo khoa học quốc tế về sinh hóa của các trường y Việt Nam chỉ
đếm trên đầu ngón tay và phần lớn là do hợp tác với nước ngoài. Trong khi đó số
bài báo về sinh học của một đại học Hàn Quốc (như Đại học Quốc gia Seoul) đã
cao gấp hai lần tổng số bài báo về sinh học của Việt Nam.
Rất khó đánh giá chất lượng đầu ra, nhưng chúng ta có thể so
sánh với một số nước xung quanh về tỉ lệ thi tuyển y khoa. Ở Úc, các bác sĩ tốt
nghiệp ngoài nước Úc có thể hành nghề y nếu họ qua một kỳ kiểm định về kiến thức
và kỹ năng lâm sàng do Hội đồng y khoa Úc điều hành.
Kết quả kiểm định của các bác sĩ tốt nghiệp từ Việt Nam cho
thấy chẳng hạn năm 2009, có 19 bác sĩ thi về kiến thức y khoa thì chỉ có 7 người
(khoảng 37%) đỗ. Tỉ lệ này tương đối thấp khi so với bác sĩ Myanmar (100%), Ấn
Độ (52%), Nam Phi (68%), Trung Quốc (43%). Tỉ lệ bác sĩ tốt nghiệp từ Việt Nam
đỗ về lâm sàng cũng chỉ dao động trong khoảng 30-50%, thấp hơn các bác sĩ từ
các nước như Philippines, Ấn Độ và Myanmar.
Đối với việc chăm sóc sức khỏe, phẩm chất là quan trọng hơn
hết. Đã có rất nhiều nghiên cứu cho thấy khi chất lượng chăm sóc thấp, kể cả
trình độ và kỹ năng của bác sĩ, thì nguy cơ tử vong ở bệnh nhân tăng cao. Ở Úc,
mỗi năm có trên 15.000 bệnh nhân tử vong vì những sai sót y khoa, kể cả sai sót
của bác sĩ trong quá trình chẩn đoán, điều trị và quản lý. Đây là những cái chết
có thể ngăn ngừa được.
Ở Việt Nam chưa có một nghiên cứu tương đương, nhưng qua phản
ánh trên báo chí về những “tai nạn” y khoa thì con số chắc còn cao hơn. Việc hấp
tấp tăng số bác sĩ có thể đáp ứng các chỉ tiêu (con số) thống kê, nhưng khó có
thể nâng cao chất lượng chăm sóc bệnh nhân.
Không thể nhân danh “đáp ứng nhu cầu” để hạ thấp các tiêu
chuẩn về chất lượng trong đào tạo y khoa.
Một vài so sánh
Nhìn chung, các chương trình đào tạo bác sĩ đa khoa ở Việt
Nam (như Đại học Y Hà Nội) có khá nhiều khác biệt so với các chương trình ở Úc.
Khác biệt từ khâu đầu vào và chương trình giảng dạy.
Ở Việt Nam, sinh viên có thể theo học ngành y theo chương
trình “cử tuyển” hay nâng cấp từ y sĩ trung cấp thành bác sĩ. Nhưng ở Úc thì
tuyệt đối không có chế độ cử tuyển và nâng cấp, chỉ có việc dành ưu tiên (tức hạ
một ít điểm) cho ứng viên người thổ dân vì cộng đồng này rất ít bác sĩ.
Ngành y liên quan mật thiết đến sinh mạng con người, do đó
những người theo học phải được tuyển chọn rất cẩn thận: ứng viên không chỉ phải
có điểm tốt nghiệp trung học rất cao, mà còn phải qua một kỳ phỏng vấn để sàng
lọc những ai thật sự có tâm.
Người viết bài này tham gia phỏng vấn hằng năm, và thấy quy
trình cũng như câu hỏi chủ yếu nhắm đến việc tuyển chọn những ứng viên thật sự
quan tâm đến việc phục vụ người dân chứ không phải vào ngành y để... kiếm tiền.
Ngoài ra, ở Úc và có thể nói là trên thế giới (có lẽ ngoại
trừ Trung Quốc), không có chương trình đào tạo “chuyên khoa I” và “chuyên khoa
II” như ở Việt Nam, và thời gian đào tạo cũng không phải chỉ 2-3 năm.
Nguồn: http://tuoitre.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét