Mỗi buổi chiều ông thường ra chơi nơi bãi cỏ vắng lặng ngoài
thung lũng. Ở đây, chiều nào ông cũng thấy một chú bé ra ngồi đợi đoàn tàu chạy
qua thung lũng, trước khi rẽ vào những vách đá đến phía ga trên.
Chú bé hồi hộp đợi. Đoàn tàu phủ đây bụi đường với những toa
đông đúc hành khách như một thế giới khác lạ ầm ầm lướt qua thung lũng. Chú bé
vụt đứng dậy háo hức đưa tay vẫy chỉ mong có một hành khách nào đó vẫy lại chú.
Nhưng hành khách – mệt mỏi vì suốt một ngày trên đường- chẳng ai để ý vẫy lại
chú bé không quen biết.
Hôm sau, rồi hôm sau, hôm sau nữa, hôm nào ông già cũng thấy
chú bé ra vẫy và vẫn không một hành khách nào vẫy lại. Nhìn nét mặt thất vọng của
chú bé, tim người diễn viên già như thắt lại. Ông nghĩ: “Không gì đau lòng
bằng việc thấy một em bé thất vọng, đừng để trẻ con mất lòng tin ở đời sống, ở con người.”
Hôm sau, người em thấy ông anh giở chiếc vali hoá trang của
ông ra. Ông dán lên mép một bộ râu giả, đeo kính, mượn ở đâu một chiếc áo
veston cũ, mặc vào rồi chống gậy đi. Ông đi nhờ chuyến xe ngựa của trạm lên tàu
đi ngược lên ga trên. Ngồi sát cửa sổ toa tàu ông thầm nghĩ: ” Đây là vai kịch
cuối cùng của mình, cũng như nhiều lần nhà hát thường phân cho mình, một vai phụ,
một vai rất bình thường, một hành khách giữa bao hành khách đi tàu…”
Qua cái thung lũng có chú bé đang đứng vẫy, người diễn viên
già nhoài người ra, cười, đưa tay vẫy lại chú bé. Ông thấy chú bé mừng cuống
quít, nhẩy cẫng lên, đưa cả hai tay vẫy mãi.
Con tàu đi xa người diễn viên già trào nước mắt cảm động hơn
bất cứ một đêm huy hoàng nào ở nhà hát. Đây là vai kịch cuối cùng của ông, một
vai phụ, một vai không có lời, một vai không đáng kể nhưng đã làm cho chú bé
kia vui sướng, đã đáp lại tâm hồn chú bé và chú sẽ không mất lòng tin ở cuộc đời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét