Danh Đức
La Pagode - Sài Gòn |
Tôi thuộc
thế hệ mà trong giấy khai sanh, trong mục nơi sinh còn ghi tên đường bằng tên
Tây - rue Paul Blanchy. Nói theo nam ca sĩ George Micheal trong album
"Song of the last century", tôi thuộc nửa sau thế kỷ trước.
Chẳng phải
là hoài cổ gì, song, như người Pháp có câu nói:"Paris đã không được dựng
nên chỉ trong một đêm". Sài Gòn 300 năm hơn này cũng thế. Sài Gòn như một đô
thị thực sự, mới chĩ bắt đầu chưa được 150 năm, kể từ sau khi người Pháp đỗ bộ
vào đây. Muốn hay không muốn, nếp sống đô thị của Sài Gòn này cũng xuất phát từ
một khuôn mẫu mà các ông già xưa gọi là "cô-lô-nhền" (colonial), nay gọi
là thuộc địa. Muốn hay không muốn, cái khuôn mẫu đó cũng đã tồn tại gần trăm năm,
trước khi nhường chỗ cho một hình thái đô thị khác như đáng thấy ngày nay.
Sài Gòn
khi đó vẫn còn chưa lớn rộng như bây giờ. Đường Nguyễn Văn Thoại (ngang khu chợ
Tân Bình bây giờ) vẫn rậm lá rừng cao su. Thậm chí đọan từ Lăng Cha Cả đến ngã
tư Bẩy Hiền, trên đường Hoàng Văn Thụ bây giờ, vẫn còn là khuôn viên của một
trung tâm khảo cứu nông nghiệp.
Sài Gòn
thời đó vẫn còn giữ nguyên khuôn mẫu của một thị trấn, bourg, và lối sống thị
thành, bourgeois, trong ý nghĩa của những "đô thị" nguyên thủy và thị
dân trước khi trở thành "tư sản". Một bourg ở Châu Âu quây quần quanh
tâm điểm là mái nhà thờ. Bên cạnh đó là tòa thị chánh. Ở đó sẽ có một quảng trường,
place, park. Chung quanh đó là cái quán rượu, hàng bánh mì, như là điểm hẹn của
cả thị trấn. Người Pháp đã mang cái mô hình đó vào Sài Gòn này. Với nhà thở Đức
Bà trên ngọn đồi cao nhất thành phố. Nhà Bưu Điện ở bên cạnh. Đổ dốc xuống là
rue Catinat. Quẹo trái là tòa thị chánh, Hotel de Ville, hết dốc là Nhà Hát Lớn,
Theatre municipal, quanh đó là quán xá,. Những Givral nổi tiếng với "Người
Mỹ Thầm Lặng", La Pagode, Brodard là những điểm hẹn của các "ông Tây
bà Đầm". Trong tiếng Pháp có một động từ rất dễ thương, động từ "s'endimancher"
đến từ danh từ "dimanche" (ngày Chúa nhật), nghĩa là diện đẹp để đi nhà thờ vào
ngày Chúa nhật.
Người
Pháp ra đi, lớp thị dân giàu có thế chỗ. Sáng Chúa nhật, những chiếc Peugeot
203, rồi thì 403 cứ thế mà đậu chung quanh nhà thờ Đức Bà. Từng gia đình nắm
tay nhau vô nhà thờ, rồi trở ra. Trước khi lên xe ra về, cả nhà quây quần trước
hai kiosque bánh mì. Hai bên tòa nhà Bưu Điện xuất hiện hai kiosque chuyên ban
bánh mì và bánh ngọt, bên trái là quán "Nguyễn Văn Ngải", bên phải là
"quán Bưu Điện". Người sành điệu nme6 bánh mì Nguyễn Văn Ngãi hơn, nhất
là bánh mì tôm (với sauce mayonaise), và bánh baba au rhum nồng nàn mùi rượu. Một
ổ bánh mì tôm cho đứa con học hành khá nhất trong tuần, những đứa con còn lại,
học kém hơn, thì chỉ được ổ bánh mì "paté" thôi. Một điểm tâm sáng thật
"công bằng", trước khi cả nhà cùng quây quần bên mâm cơm thịnh soạn của
ngày Chúa nhật. Hạnh phúc gia đình là như thế. Và ngay cả cái chất thị dân đích
thực cũng là như thế, ngăn nắp trong cả sự trù phú.
Người thị
dân Sài Gòn đích thực không hề có lối nhậu vác cả két "la de" (bia),
cả thùng "Budweiser", cả chai rượu "Cognac" ra dằn trên
bàn! (Cái kiểu uống trăm phần trăm, pha cả lít rượu và cả nón sắt đựng nước dừa
"ô kê thau!" đó chỉ dành cho cánh lính trơn, thuộc "chỉ số bóp
cò", sống nay chết mai). Họ không chỉ thưởng thức từng ngụm Cognac.
Martell cổ lùn vào Sài Gòn vào năm 1965 thay cho Martell cổ cao, từng ngụm
lade, mà còn thưởng thức cả việc được người phục vụ rót từng ly cho họ. Động từ
"Nhậu", xin lỗi, không được dùng trong giới này. Người thị dân thực sự
không tham "nhậu" bỏ bê gia đình, cho dù họ có là thương gia! Chính
vì lẽ đó, những bữa cơm gia đình vẫn là tối thượng.
Sống như
thế không có nghĩa là "Trưởng giả học làm sang". Trái lại! Tỉ như
tui ưa "gu" thuốc lá đen, tui
hút "Bastos", anh ưa "gu" thuốc thơm, anh hút Pall Mall,
Lucky Strike, tùy anh. Anh ta ưa "gu" thuốc lá the, anh ta hút
"Salem", mặc anh ta. Không ai phải mặc cảm khi hút đúng
"gu" của mình cả. Ông giáo sư, ông bác sĩ mà "ghiền" quá cũng
hút "Bastos" như mọi người.
Người thị
dân có "gia phả" biết thưởng thức tất cả trong sự thành thật với người,
trung thực với chính "cái tôi" của mình, chứ không vong thân vì gói
thuốc. Cũng như, nếu tui là công chức, nặng gánh gia đình, sáng sáng tui ra
quán hủ tíu đầu đường, uống cà phê, ăn điểm tâm (bánh bao, xíu mại, há cảo...), đâu
cần đợi đến ngày nay mới biết ăn cũng chừng ấy món mà phải tréo quai hàm đọc
thành"dim sum"! Ngày xưa Tân Gia Ba (Singapore), Hồng Kông làm sao
sánh nổi với Hòn Ngọc Viễn Đông này về sự thanh lịch.
Điều gì làm nên tính cách của thị dân? "Sự chịu chơi"? E rằng không phải. Mà
là sự thanh lịch! Thật ra, sự thanh lịch đó mất dần từ đầu những năm 70, khi mà
chiến cuộc khốc liệt đem lối sống "nhà binh" tràn đầy thành phố.
Tất cả rồi
cũng qua đi. Hào hoa, món hàng xa xỉ trong thời chiến thì nay lại trở nên lỗi
thời giữa nhịp sống công nghiệp gấp gáp thời bình. Thời nay, hiếm thấy còn một
mẩy đấng mày râu mở cửa cho phụ nữ vào, biết kèo ghế cho phụ nữ ngồi. Bỗng dưng
nhớ lại ca khúc từng đoạt giải Grammy "Where Have All The Cowboys
Gone" của nữ ca sĩ Paula Cole. Ôi, đâu rồi những đấng trượng phu!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét