SGTT.VN - Nội dung một
bài báo khoa học phản ảnh những phát hiện đáng chú ý mà tác giả muốn chia sẻ
cùng cộng đồng khoa học. Đứng tên tác giả một bài báo khoa học không chỉ có
nghĩa chịu trách nhiệm về nội dung và có thẩm quyền về bài báo, mà còn là một
hình thức ghi nhận công trạng. Gần đây, việc cùng đứng tên trên một bài báo
khoa học dù không có đóng góp tương xứng với vị trí đồng tác giả ngày càng phổ
biến ở Việt Nam. Theo quan điểm của nhà khoa học y khoa Nguyễn Văn Tuấn, người
vừa đoạt giải Sách Hay 2013, đây là hành vi vi phạm đạo đức khoa học.
1-Từ tác giả danh dự,
tác giả ma...
Một cây làm chẳng nên
non
Số lượng bài báo mà một cá nhân đứng tên tác giả thường được
xem là một trong những chỉ tiêu quan trọng để xét duyệt đề bạt các chức danh
khoa bảng (như giáo sư, phó giáo sư). Ở nhiều trường đại học trên thế giới,
nghiên cứu sinh cần phải đứng tên tác giả đầu của một số công trình nghiên cứu
mới được bảo vệ luận án tiến sĩ. Đối với các cơ quan tài trợ như Nafosted của bộ
Khoa học và công nghệ, bài báo khoa học là một trong những tiêu chí để “nghiệm
thu” công trình nghiên cứu. Ở cấp quốc gia, số bài báo khoa học (mà công dân của
quốc gia đó đứng tên tác giả) được xem là một thước đo quan trọng để đánh giá
trình độ khoa học kỹ thuật của quốc gia. Do đó, việc phân định công trạng qua đứng
tên tác giả bài báo khoa học rất có ý nghĩa đến cá nhân nhà khoa học và uy danh
quốc gia.
Vấn đề phân định công trạng rất đơn giản nếu bài báo chỉ có
một tác giả duy nhất, nhưng trở nên phức tạp khi bài báo có nhiều tác giả. Từ
thế kỷ 17 đến thập niên 1920, quy ước của cộng đồng khoa học là mỗi bài báo chỉ
có một tác giả. Do đó, việc phân định công trạng chưa được đặt ra. Đến thập
niên 1950 thì quy ước một tác giả bị chất vấn, và đến thập niên 1980 thì cộng đồng
khoa học thay đổi theo hướng dân chủ hơn.
Ngày nay, mở một tập san khoa học lớn (như Nature, Science,
Cell), chúng ta thấy có rất nhiều bài báo với nhiều tác giả, có bài số tác giả
lên đến hàng trăm người! Theo thống kê của Nature, tính trung bình, số tác giả
của mỗi bài báo ngày nay tăng gấp bốn lần so với thập niên 1950.
Ngày nay, nghiên cứu khoa học thường là nỗ lực của một tập
thể, vì có sự đóng góp của nhiều chuyên gia từ nhiều chuyên ngành. Do đó, hiện
tượng nhiều tác giả không có gì đáng ngạc nhiên. Nhưng việc phân định công trạng
không dễ dàng khi mà mọi người đều có thể nói “không có tôi thì công trình này
không thành công”. Người viết bài này từng chứng kiến những tranh cãi như thế rất
nhiều lần, và mỗi lần đều dẫn đến những kết cục buồn, vì sứt mẻ tình bạn và
quan hệ đồng nghiệp.
Ba tiêu chuẩn vàng
Câu hỏi đặt ra là ai xứng đáng đứng tên tác giả? Năm 1985, uỷ
ban Tổng biên tập các tập san y học (International Committee of Medical Journal
Editors – ICMJE, còn gọi là Vancouver Group) đề ra ba tiêu chuẩn cho một tác giả
bài báo khoa học. Năm 2000, ba tiêu chuẩn này được hiệu chỉnh, và được giới
khoa học quốc tế công nhận là những tiêu chuẩn vàng để quy quyền tác giả. Theo
định nghĩa của ICMJE, một thành viên nghiên cứu có tư cách đứng tên tác giả phải
hội đủ ba tiêu chuẩn: có đóng góp quan trọng trong việc hình thành ý tưởng và
phương pháp nghiên cứu, hay thu thập dữ kiện, hay phân tích và diễn dịch dữ kiện;
đã soạn thảo bài báo hay kiểm tra nội dung bài báo một cách nghiêm túc; và phê
chuẩn bản thảo sau cùng để gửi cho tập san. Những người chỉ có công tìm tài trợ,
chỉ có công thu thập dữ kiện, hay chỉ có công lãnh đạo một nhóm nghiên cứu thì
không có quyền đứng tên tác giả.
Nguyên tắc là thế, nhưng trong thực tế không phải ai cũng dựa
theo những tiêu chuẩn vàng trên. Có nhiều bài báo khoa học mà trong đó một số
tác giả chẳng đóng góp gì đáng kể, thậm chí chẳng biết nội dung bài báo nói về
cái gì, có người còn chưa thấy bài báo ra sao! Gần đây, với áp lực xin tiền tài
trợ cho nghiên cứu và xin đề bạt, xuất hiện hiện tượng tác giả danh dự, tác giả
ma (ghost author), và… cướp công trong khoa học.
Ở Việt Nam, không ít tác giả đứng tên tác giả trong bài báo
khoa học nhưng không đáp ứng ba tiêu chuẩn vàng trên. Họ không dính dáng gì đến
việc khai sinh ý tưởng bài báo, không tham gia soạn thảo bài báo, nhưng thường
là giám đốc một trung tâm, hay đứng đầu một nhóm nghiên cứu lớn. Là giám đốc, họ
có thể gây áp lực đến nhà khoa học dưới quyền hay đối tác nước ngoài ghi tên họ
vào danh sách tác giả. Đối với nghiên cứu sinh, do ở vị thế “bất lợi” nên đành
phải làm theo yêu cầu. Đối với đối tác nước ngoài, vì lý do ngoại giao và làm
việc lâu dài, cũng sẵn sàng đề tên các sếp vào danh sách tác giả. Thuật ngữ
khoa học gọi những “tác giả” loại này là “tác giả danh dự” (honorary author),
“tác giả mời” (guest author), “tác giả quà” (gift author). Đối với tác giả
chính, có tác giả danh dự hay tác giả quà chẳng hại gì, mà còn thắt chặt thêm
tình đồng nghiệp trong tương lai, khi mà lúc “có qua có lại” trở thành một lợi
thế cho sự nghiệp khoa bảng. Theo một phân tích công bố trên tập san JAMA vào
năm 1998, có gần 20% các bài báo có những “tác giả danh dự”, tức rất phổ biến!
“Tác giả ma” là một thuật ngữ tương đối mới trên thế giới,
nhưng nó lại không hề mới trong giới nghiên cứu khoa học ở Việt Nam. Theo cách
hiểu thông thường, tác giả ma là người soạn thảo bài báo khoa học nhưng lại
không có tên trong danh sách tác giả (và người đứng tên tác giả thì không hề viết
bài báo!) Hiện tượng tác giả ma chỉ xuất hiện trên các tập san khoa học khoảng
20 năm qua, và “thủ phạm” là các công ty dược. Các công ty dược làm nghiên cứu,
rồi mướn chuyên gia khác viết bài báo, và mời các giáo sư nổi tiếng (không liên
quan gì đến công trình nghiên cứu) đứng tên tác giả. Khoảng 11% các bài báo y
khoa có hiện tượng tác giả ma. Tuy nhiên, ở Việt Nam, hiện tượng tác giả ma khá
phổ biến từ lâu và xuất hiện dưới nhiều dạng. Có những người chuyên viết thuê
luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ, có người chuyên viết thuê bài báo khoa học,
có những người chuyên soạn bài nói chuyện cho các giáo sư v.v. Do đó, hiện tượng
tác giả ma ở Việt Nam có phần “phong phú” hơn so với thế giới.
2 - Dùng mẹo để cướp
công
Mẹo “và cộng sự”
Khoảng 50% các bài báo khoa học, nhất là trong ngành y, có năm
tác giả trở lên. Vấn đề đặt ra là cách sắp xếp thứ tự trong danh sách tác giả
của bài báo phải phản ánh được công trạng của thành viên tham gia trong công
trình nghiên cứu. Theo cách hiểu thông thường của người ngoài khoa học, người
có đóng góp nhiều nhất hay quan trọng nhất phải là tác giả số một, người có
công quan trọng kế tiếp là tác giả số hai, và tác giả sau cùng có đóng góp ít
nhất. Nhưng trong khoa học có những quy ước bất thành văn mà người ngoài khó
hiểu được, như trong ngành y, tác giả đầu (số một) thường là nghiên cứu sinh
hay những người có đóng góp nhiều nhất cho bài báo và công trình nghiên cứu,
tác giả số hai thường là thầy cô hay người hướng dẫn của nghiên cứu sinh, và
tác giả sau cùng có thể là người đứng đầu của nhóm nghiên cứu (tức “sếp”). Vị
trí của các tác giả còn lại là kết quả của thoả thuận nội bộ, hay quyết định
của tác giả sau cùng. Dĩ nhiên, không phải bài báo nào cũng theo quy ước đó,
nhưng xu hướng chung là thế. Chỉ người trong cuộc mới biết ai đóng góp nhiều ít
ra sao.
Mấy năm gần đây, các tập san khoa học có quy định mà theo đó các
tác giả phải “khai báo” họ đã đóng vai trò gì trong công trình nghiên cứu.
Chẳng hạn như trong công trình nghiên cứu về ô nhiễm arsenic công bố trên tập
san Nature, có phần viết về đóng góp của từng tác giả, và chúng ta biết rằng
các tác giả Việt Nam chủ yếu là bố trí thử nghiệm và thu thập dữ liệu, các tác
giả ngoại quốc chỉ có công trong việc đề xuất ý tưởng, phân tích dữ liệu và
soạn thảo bài báo. Theo tôi cách làm này cần được triển khai ở các tập san khoa
học trong nước, vì tính minh bạch và qua đó cho phép người đọc tự đánh giá đóng
góp của nhà khoa học.
Ở Việt Nam, có lẽ do hoàn cảnh đặc thù và áp lực đề bạt nên
người ta còn có những mẹo rất lạ lùng, như mẹo lợi dụng cụm từ “và cộng sự”.
Trong một số bài báo trên các tập san khoa học nội địa, có những bài mà dòng
tác giả được ghi theo công thức “Nguyễn Văn A, và cộng sự”. Người đọc không
biết “cộng sự” là ai, làm việc ở đâu, có đóng góp gì. Nếu quả thật là “cộng sự”
thì họ nên được ghi tên trong phần cảm tạ, chứ không phải đứng tên tác giả. Ghi
một cách lấp lửng “và cộng sự” như thế mới có lợi trong việc tính điểm để nâng
cao khả năng được phong hàm giáo sư, phó giáo sư! Nếu bài báo có mười tác giả
thì theo quy định, mỗi tác giả được 1/10 điểm, nhưng khi ghi “Nguyễn Văn A, và
cộng sự” thì hội đồng chỉ tính hai tác giả, và ông A được 50% điểm.
Mẹo này hài hước đến độ khó tin, nhưng vẫn được áp dụng trong
thế giới học thuật ở Việt Nam!
Cướp công có hệ
thống!
Cơ cấu quyền lực và quy định bất hợp lý trong các trung tâm khoa
học có khi dẫn đến tình trạng cướp công trong khoa học. Năm 1943, Albert Schatz
là một nghiên cứu sinh trẻ tuổi với sứ mệnh tìm cho được thuốc điều trị bệnh
lao. Sau vài năm làm việc cật lực, Schatz khám phá thuốc kháng sinh
streptomycin và là tác giả một bài báo khoa học về khám phá này. Sếp và cũng là
người hướng dẫn luận án của Schatz là Selman Waksman, bắt đầu giành công trạng
về mình, bằng cách làm một cuộc vận động trong giới khoa học rằng ông là người
khám phá streptomycin và không đề cập gì đến người nghiên cứu sinh của mình!
Cậu học trò Schatz hoàn toàn không hay biết gì, vì trong thực tế, cả Schatz và
Waksman cùng ký tên trong bằng sáng chế (patent) streptomycin. Nhưng sau vài
năm, Schatz mới biết Waksman đã bí mật ký một hợp đồng và bán bản quyền sáng
chế (với một số tiền lớn) cho một công ty dược lớn, và trong hợp đồng này không
có tên Schatz! Schatz kiện Waksman ra toà, và toà án phán quyết công ty dược
phải trả tiền sáng chế cho Schatz. Tuy nhiên, với vị thế của mình, vận động của
Waksman đã thành công mỹ mãn: ông ta được trao giải thưởng Nobel vào năm 1952
vì “có công khám phá streptomycin”. Công trạng của Schatz chỉ mới được tái phát
hiện khi giới sử học xem lại quá trình khám phá thuốc kháng sinh quan trọng
này.
Đây đó ở Việt Nam cũng xảy ra tình trạng các sếp tự tiện ghi tên
họ là tác giả đầu của bài báo khoa học dù công trình do nghiên cứu sinh làm.
Nếu các vị này thực sự có cống hiến quan trọng về ý tưởng, thu thập dữ kiện,
phân tích, diễn giải và soạn thảo bài báo, thì cũng không có gì sai. Nhưng có
nhiều trường hợp, các sếp chẳng có cống hiến gì đáng kể ngoài việc thảo luận
đôi ba lần về nghiên cứu và đọc qua bản thảo bài báo, tệ hại hơn nữa là có khi
nghiên cứu sinh chỉ đứng tên trong phần cảm tạ!
Cướp công có khi xảy ra một cách có hệ thống. Có những trường
hợp nghiên cứu sinh và một người hướng dẫn hoàn thiện đề cương nghiên cứu,
nhưng khi trình ra hội đồng khoa học, người hướng dẫn bị loại, thay vào đó
người của trường đại học địa phương làm người hướng dẫn nghiên cứu! Dĩ nhiên
người được chỉ định thay thế chẳng dính dáng gì đến đề tài, chẳng đóng góp chữ
nào trong đề cương (chứ chưa nói đến ý tưởng). Việc họ sẵn sàng đứng tên hướng
dẫn mà chẳng có dính dáng gì đến đề tài nghiên cứu quả là ngoài sự tưởng tượng
của một người có nhân cách bình thường. Điều đáng buồn là dù “tập quán” cướp
công và các sếp đứng tên tác giả trong bài báo của các nhà nghiên cứu dưới
quyền rất phổ biến, nhiều nạn nhân (phần lớn là nghiên cứu sinh) không dám phàn
nàn, vì sợ bị trù dập. Cái lực đằng sau hiện tượng “cướp công” trên là tình
trạng bất bình đẳng trong quyền lực khoa học. Những câu chuyện về bóc lột tri
thức phát sinh ở bất cứ nơi nào mà các sếp và giáo sư giữ vai trò mang tính
quyết định tương lai của nghiên cứu sinh hay nhà khoa học dưới cấp.
Phải làm gì để tránh tình trạng nhập nhằng trong vấn đề quyết
định ai là tác giả và vị trí của tác giả trong bài báo? Theo kinh nghiệm cá
nhân, xin đề xuất: trường đại học và trung tâm nghiên cứu phải phát triển một
chính sách cụ thể về đóng góp trong nghiên cứu, và chỉ rõ các điều kiện cần
thiết để các nhà nghiên cứu có thể xác định vị trí của tác giả trong bài báo;
hoạch định tác giả và vị trí tác giả trước khi tiến hành nghiên cứu, nhất là
trong giai đoạn thảo luận và thiết kế nghiên cứu; và việc hoạch định này phải
dựa theo các tiêu chuẩn của ICMJE, tất cả các tác giả phải đồng ý trước khi
tiến hành nghiên cứu.
Chữ “author” (tác giả) trong tiếng Anh có nguồn gốc Latin là
“auctor” – nghĩa nguyên thuỷ là người có uy tín hay người có thẩm quyền. Đứng
tên tác giả một bài báo khoa học, hiểu theo nghĩa này, đồng nghĩa với tạo cho
mình một uy tín và thẩm quyền, và quan trọng hơn hết là phải chịu trách nhiệm
trước công chúng về các phát biểu trong bài báo. Đứng tên tác giả mà không đáp
ứng tiêu chuẩn và tráo đổi vị trí tác giả đều là những hình thức vi phạm đạo
đức khoa học. Một nền khoa học lành mạnh cần phải được xây dựng trên nền tảng
của sự minh bạch và liêm chính, chứ không thể dung dưỡng những tác giả ma, tác
giả danh dự, và những kẻ cướp công trong khoa học.
Nguồn:http://sgtt.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét