Thứ Bảy, 28 tháng 9, 2013

Công trạng trong khoa học

Nguyễn Văn Tuấn

SGTT.VN - Nội dung một bài báo khoa học phản ảnh những phát hiện đáng chú ý mà tác giả muốn chia sẻ cùng cộng đồng khoa học. Đứng tên tác giả một bài báo khoa học không chỉ có nghĩa chịu trách nhiệm về nội dung và có thẩm quyền về bài báo, mà còn là một hình thức ghi nhận công trạng. Gần đây, việc cùng đứng tên trên một bài báo khoa học dù không có đóng góp tương xứng với vị trí đồng tác giả ngày càng phổ biến ở Việt Nam. Theo quan điểm của nhà khoa học y khoa Nguyễn Văn Tuấn, người vừa đoạt giải Sách Hay 2013, đây là hành vi vi phạm đạo đức khoa học.

1-Từ tác giả danh dự, tác giả ma...

Một cây làm chẳng nên non
Số lượng bài báo mà một cá nhân đứng tên tác giả thường được xem là một trong những chỉ tiêu quan trọng để xét duyệt đề bạt các chức danh khoa bảng (như giáo sư, phó giáo sư). Ở nhiều trường đại học trên thế giới, nghiên cứu sinh cần phải đứng tên tác giả đầu của một số công trình nghiên cứu mới được bảo vệ luận án tiến sĩ. Đối với các cơ quan tài trợ như Nafosted của bộ Khoa học và công nghệ, bài báo khoa học là một trong những tiêu chí để “nghiệm thu” công trình nghiên cứu. Ở cấp quốc gia, số bài báo khoa học (mà công dân của quốc gia đó đứng tên tác giả) được xem là một thước đo quan trọng để đánh giá trình độ khoa học kỹ thuật của quốc gia. Do đó, việc phân định công trạng qua đứng tên tác giả bài báo khoa học rất có ý nghĩa đến cá nhân nhà khoa học và uy danh quốc gia.
Vấn đề phân định công trạng rất đơn giản nếu bài báo chỉ có một tác giả duy nhất, nhưng trở nên phức tạp khi bài báo có nhiều tác giả. Từ thế kỷ 17 đến thập niên 1920, quy ước của cộng đồng khoa học là mỗi bài báo chỉ có một tác giả. Do đó, việc phân định công trạng chưa được đặt ra. Đến thập niên 1950 thì quy ước một tác giả bị chất vấn, và đến thập niên 1980 thì cộng đồng khoa học thay đổi theo hướng dân chủ hơn.
Ngày nay, mở một tập san khoa học lớn (như Nature, Science, Cell), chúng ta thấy có rất nhiều bài báo với nhiều tác giả, có bài số tác giả lên đến hàng trăm người! Theo thống kê của Nature, tính trung bình, số tác giả của mỗi bài báo ngày nay tăng gấp bốn lần so với thập niên 1950.
Ngày nay, nghiên cứu khoa học thường là nỗ lực của một tập thể, vì có sự đóng góp của nhiều chuyên gia từ nhiều chuyên ngành. Do đó, hiện tượng nhiều tác giả không có gì đáng ngạc nhiên. Nhưng việc phân định công trạng không dễ dàng khi mà mọi người đều có thể nói “không có tôi thì công trình này không thành công”. Người viết bài này từng chứng kiến những tranh cãi như thế rất nhiều lần, và mỗi lần đều dẫn đến những kết cục buồn, vì sứt mẻ tình bạn và quan hệ đồng nghiệp. 

Ba tiêu chuẩn vàng
Câu hỏi đặt ra là ai xứng đáng đứng tên tác giả? Năm 1985, uỷ ban Tổng biên tập các tập san y học (International Committee of Medical Journal Editors – ICMJE, còn gọi là Vancouver Group) đề ra ba tiêu chuẩn cho một tác giả bài báo khoa học. Năm 2000, ba tiêu chuẩn này được hiệu chỉnh, và được giới khoa học quốc tế công nhận là những tiêu chuẩn vàng để quy quyền tác giả. Theo định nghĩa của ICMJE, một thành viên nghiên cứu có tư cách đứng tên tác giả phải hội đủ ba tiêu chuẩn: có đóng góp quan trọng trong việc hình thành ý tưởng và phương pháp nghiên cứu, hay thu thập dữ kiện, hay phân tích và diễn dịch dữ kiện; đã soạn thảo bài báo hay kiểm tra nội dung bài báo một cách nghiêm túc; và phê chuẩn bản thảo sau cùng để gửi cho tập san. Những người chỉ có công tìm tài trợ, chỉ có công thu thập dữ kiện, hay chỉ có công lãnh đạo một nhóm nghiên cứu thì không có quyền đứng tên tác giả.
Nguyên tắc là thế, nhưng trong thực tế không phải ai cũng dựa theo những tiêu chuẩn vàng trên. Có nhiều bài báo khoa học mà trong đó một số tác giả chẳng đóng góp gì đáng kể, thậm chí chẳng biết nội dung bài báo nói về cái gì, có người còn chưa thấy bài báo ra sao! Gần đây, với áp lực xin tiền tài trợ cho nghiên cứu và xin đề bạt, xuất hiện hiện tượng tác giả danh dự, tác giả ma (ghost author), và… cướp công trong khoa học.
Ở Việt Nam, không ít tác giả đứng tên tác giả trong bài báo khoa học nhưng không đáp ứng ba tiêu chuẩn vàng trên. Họ không dính dáng gì đến việc khai sinh ý tưởng bài báo, không tham gia soạn thảo bài báo, nhưng thường là giám đốc một trung tâm, hay đứng đầu một nhóm nghiên cứu lớn. Là giám đốc, họ có thể gây áp lực đến nhà khoa học dưới quyền hay đối tác nước ngoài ghi tên họ vào danh sách tác giả. Đối với nghiên cứu sinh, do ở vị thế “bất lợi” nên đành phải làm theo yêu cầu. Đối với đối tác nước ngoài, vì lý do ngoại giao và làm việc lâu dài, cũng sẵn sàng đề tên các sếp vào danh sách tác giả. Thuật ngữ khoa học gọi những “tác giả” loại này là “tác giả danh dự” (honorary author), “tác giả mời” (guest author), “tác giả quà” (gift author). Đối với tác giả chính, có tác giả danh dự hay tác giả quà chẳng hại gì, mà còn thắt chặt thêm tình đồng nghiệp trong tương lai, khi mà lúc “có qua có lại” trở thành một lợi thế cho sự nghiệp khoa bảng. Theo một phân tích công bố trên tập san JAMA vào năm 1998, có gần 20% các bài báo có những “tác giả danh dự”, tức rất phổ biến!
“Tác giả ma” là một thuật ngữ tương đối mới trên thế giới, nhưng nó lại không hề mới trong giới nghiên cứu khoa học ở Việt Nam. Theo cách hiểu thông thường, tác giả ma là người soạn thảo bài báo khoa học nhưng lại không có tên trong danh sách tác giả (và người đứng tên tác giả thì không hề viết bài báo!) Hiện tượng tác giả ma chỉ xuất hiện trên các tập san khoa học khoảng 20 năm qua, và “thủ phạm” là các công ty dược. Các công ty dược làm nghiên cứu, rồi mướn chuyên gia khác viết bài báo, và mời các giáo sư nổi tiếng (không liên quan gì đến công trình nghiên cứu) đứng tên tác giả. Khoảng 11% các bài báo y khoa có hiện tượng tác giả ma. Tuy nhiên, ở Việt Nam, hiện tượng tác giả ma khá phổ biến từ lâu và xuất hiện dưới nhiều dạng. Có những người chuyên viết thuê luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ, có người chuyên viết thuê bài báo khoa học, có những người chuyên soạn bài nói chuyện cho các giáo sư v.v. Do đó, hiện tượng tác giả ma ở Việt Nam có phần “phong phú” hơn so với thế giới. 

2 - Dùng mẹo để cướp công

Mẹo “và cộng sự”
Khoảng 50% các bài báo khoa học, nhất là trong ngành y, có năm tác giả trở lên. Vấn đề đặt ra là cách sắp xếp thứ tự trong danh sách tác giả của bài báo phải phản ánh được công trạng của thành viên tham gia trong công trình nghiên cứu. Theo cách hiểu thông thường của người ngoài khoa học, người có đóng góp nhiều nhất hay quan trọng nhất phải là tác giả số một, người có công quan trọng kế tiếp là tác giả số hai, và tác giả sau cùng có đóng góp ít nhất. Nhưng trong khoa học có những quy ước bất thành văn mà người ngoài khó hiểu được, như trong ngành y, tác giả đầu (số một) thường là nghiên cứu sinh hay những người có đóng góp nhiều nhất cho bài báo và công trình nghiên cứu, tác giả số hai thường là thầy cô hay người hướng dẫn của nghiên cứu sinh, và tác giả sau cùng có thể là người đứng đầu của nhóm nghiên cứu (tức “sếp”). Vị trí của các tác giả còn lại là kết quả của thoả thuận nội bộ, hay quyết định của tác giả sau cùng. Dĩ nhiên, không phải bài báo nào cũng theo quy ước đó, nhưng xu hướng chung là thế. Chỉ người trong cuộc mới biết ai đóng góp nhiều ít ra sao.
Mấy năm gần đây, các tập san khoa học có quy định mà theo đó các tác giả phải “khai báo” họ đã đóng vai trò gì trong công trình nghiên cứu. Chẳng hạn như trong công trình nghiên cứu về ô nhiễm arsenic công bố trên tập san Nature, có phần viết về đóng góp của từng tác giả, và chúng ta biết rằng các tác giả Việt Nam chủ yếu là bố trí thử nghiệm và thu thập dữ liệu, các tác giả ngoại quốc chỉ có công trong việc đề xuất ý tưởng, phân tích dữ liệu và soạn thảo bài báo. Theo tôi cách làm này cần được triển khai ở các tập san khoa học trong nước, vì tính minh bạch và qua đó cho phép người đọc tự đánh giá đóng góp của nhà khoa học.
Ở Việt Nam, có lẽ do hoàn cảnh đặc thù và áp lực đề bạt nên người ta còn có những mẹo rất lạ lùng, như mẹo lợi dụng cụm từ “và cộng sự”. Trong một số bài báo trên các tập san khoa học nội địa, có những bài mà dòng tác giả được ghi theo công thức “Nguyễn Văn A, và cộng sự”. Người đọc không biết “cộng sự” là ai, làm việc ở đâu, có đóng góp gì. Nếu quả thật là “cộng sự” thì họ nên được ghi tên trong phần cảm tạ, chứ không phải đứng tên tác giả. Ghi một cách lấp lửng “và cộng sự” như thế mới có lợi trong việc tính điểm để nâng cao khả năng được phong hàm giáo sư, phó giáo sư! Nếu bài báo có mười tác giả thì theo quy định, mỗi tác giả được 1/10 điểm, nhưng khi ghi “Nguyễn Văn A, và cộng sự” thì hội đồng chỉ tính hai tác giả, và ông A được 50% điểm.
Mẹo này hài hước đến độ khó tin, nhưng vẫn được áp dụng trong thế giới học thuật ở Việt Nam!

Cướp công có hệ thống!
Cơ cấu quyền lực và quy định bất hợp lý trong các trung tâm khoa học có khi dẫn đến tình trạng cướp công trong khoa học. Năm 1943, Albert Schatz là một nghiên cứu sinh trẻ tuổi với sứ mệnh tìm cho được thuốc điều trị bệnh lao. Sau vài năm làm việc cật lực, Schatz khám phá thuốc kháng sinh streptomycin và là tác giả một bài báo khoa học về khám phá này. Sếp và cũng là người hướng dẫn luận án của Schatz là Selman Waksman, bắt đầu giành công trạng về mình, bằng cách làm một cuộc vận động trong giới khoa học rằng ông là người khám phá streptomycin và không đề cập gì đến người nghiên cứu sinh của mình! Cậu học trò Schatz hoàn toàn không hay biết gì, vì trong thực tế, cả Schatz và Waksman cùng ký tên trong bằng sáng chế (patent) streptomycin. Nhưng sau vài năm, Schatz mới biết Waksman đã bí mật ký một hợp đồng và bán bản quyền sáng chế (với một số tiền lớn) cho một công ty dược lớn, và trong hợp đồng này không có tên Schatz! Schatz kiện Waksman ra toà, và toà án phán quyết công ty dược phải trả tiền sáng chế cho Schatz. Tuy nhiên, với vị thế của mình, vận động của Waksman đã thành công mỹ mãn: ông ta được trao giải thưởng Nobel vào năm 1952 vì “có công khám phá streptomycin”. Công trạng của Schatz chỉ mới được tái phát hiện khi giới sử học xem lại quá trình khám phá thuốc kháng sinh quan trọng này.
Đây đó ở Việt Nam cũng xảy ra tình trạng các sếp tự tiện ghi tên họ là tác giả đầu của bài báo khoa học dù công trình do nghiên cứu sinh làm. Nếu các vị này thực sự có cống hiến quan trọng về ý tưởng, thu thập dữ kiện, phân tích, diễn giải và soạn thảo bài báo, thì cũng không có gì sai. Nhưng có nhiều trường hợp, các sếp chẳng có cống hiến gì đáng kể ngoài việc thảo luận đôi ba lần về nghiên cứu và đọc qua bản thảo bài báo, tệ hại hơn nữa là có khi nghiên cứu sinh chỉ đứng tên trong phần cảm tạ!
Cướp công có khi xảy ra một cách có hệ thống. Có những trường hợp nghiên cứu sinh và một người hướng dẫn hoàn thiện đề cương nghiên cứu, nhưng khi trình ra hội đồng khoa học, người hướng dẫn bị loại, thay vào đó người của trường đại học địa phương làm người hướng dẫn nghiên cứu! Dĩ nhiên người được chỉ định thay thế chẳng dính dáng gì đến đề tài, chẳng đóng góp chữ nào trong đề cương (chứ chưa nói đến ý tưởng). Việc họ sẵn sàng đứng tên hướng dẫn mà chẳng có dính dáng gì đến đề tài nghiên cứu quả là ngoài sự tưởng tượng của một người có nhân cách bình thường. Điều đáng buồn là dù “tập quán” cướp công và các sếp đứng tên tác giả trong bài báo của các nhà nghiên cứu dưới quyền rất phổ biến, nhiều nạn nhân (phần lớn là nghiên cứu sinh) không dám phàn nàn, vì sợ bị trù dập. Cái lực đằng sau hiện tượng “cướp công” trên là tình trạng bất bình đẳng trong quyền lực khoa học. Những câu chuyện về bóc lột tri thức phát sinh ở bất cứ nơi nào mà các sếp và giáo sư giữ vai trò mang tính quyết định tương lai của nghiên cứu sinh hay nhà khoa học dưới cấp.
Phải làm gì để tránh tình trạng nhập nhằng trong vấn đề quyết định ai là tác giả và vị trí của tác giả trong bài báo? Theo kinh nghiệm cá nhân, xin đề xuất: trường đại học và trung tâm nghiên cứu phải phát triển một chính sách cụ thể về đóng góp trong nghiên cứu, và chỉ rõ các điều kiện cần thiết để các nhà nghiên cứu có thể xác định vị trí của tác giả trong bài báo; hoạch định tác giả và vị trí tác giả trước khi tiến hành nghiên cứu, nhất là trong giai đoạn thảo luận và thiết kế nghiên cứu; và việc hoạch định này phải dựa theo các tiêu chuẩn của ICMJE, tất cả các tác giả phải đồng ý trước khi tiến hành nghiên cứu.
Chữ “author” (tác giả) trong tiếng Anh có nguồn gốc Latin là “auctor” – nghĩa nguyên thuỷ là người có uy tín hay người có thẩm quyền. Đứng tên tác giả một bài báo khoa học, hiểu theo nghĩa này, đồng nghĩa với tạo cho mình một uy tín và thẩm quyền, và quan trọng hơn hết là phải chịu trách nhiệm trước công chúng về các phát biểu trong bài báo. Đứng tên tác giả mà không đáp ứng tiêu chuẩn và tráo đổi vị trí tác giả đều là những hình thức vi phạm đạo đức khoa học. Một nền khoa học lành mạnh cần phải được xây dựng trên nền tảng của sự minh bạch và liêm chính, chứ không thể dung dưỡng những tác giả ma, tác giả danh dự, và những kẻ cướp công trong khoa học.
 Nguồn:http://sgtt.vn

Không có nhận xét nào: