Thích Phước Sơn
Thế giới mà chúng ta đang sống luôn luôn nảy sinh những
tranh chấp và bất ổn. Trong quá khứ đã từng xảy ra không biết bao nhiêu cuộc
chiến tranh tàn khốc, đẫm máu, làm thiệt hại vô số sinh mạng và tài sản. Hiện
nay, tuy tình hình có hơi lắng dịu và hòa hoãn, nhưng chưa phải đã hoàn toàn ổn
định. Do thế, hòa bình vẫn là một khát vọng muôn đời của toàn thể nhân loại. Đạo
Phật vốn được tiếng là đạo từ bi, cứu khổ; thế thì, trong lĩnh vực Hòa bình, Phật
giáo có những giải pháp gì được xem là hữu hiệu và khả thi hay không? Đó là điều
mà bài viết này muốn gia tâm tìm hiểu.
1. Nguyên nhân của mọi sự tranh chấp
Xuyên qua lịch sử, chúng ta thấy rằng nguyên nhân của các cuộc
đấu tranh là do lòng tham dục của con người gây ra, khiến cho gia đình đổ vỡ,
xã hội nhiễu nhương và nhân loại đau khổ. Chính điều đó đã được Đức Thế Tôn chứng
ngộ và khai thị cho chúng ta:
"Này các Tỷ kheo, do dục vọng làm duyên, nên vua tranh
chấp với vua, Sát đế lrnh chấp với Sát đế lBà la môn tranh chấp với Bà la
môn, gia chủ tranh chấp với gia chủ, cha mẹ, anh em, bè bạn tranh chấp lẫn
nhau. Khi chúng đã dấn thân vào sự tranh chấp, chúng đánh nhau bằng tay, ném
nhau bằng đá,đập nhau bằng gậy và chém nhau bằng gươm. Do đó, chúng bị tử
thương, hoặc ngắc ngư quằn quại"(Trung bộ kinh I,tr.87).
Sự tranh chấp sở dĩ xảy ra, nếu không do lòng dục thúc đẩy,
thì cũng do sự cuồng tín cố chấp gây nên, như một hôm Đức Phật khuyến cáo một
thanh niên Bà la môn:
"Người trí giữ gìn chân lý không nên di đến kết luận:
"Chỉ có đây là chân lý, còn mọi điều kiện khác là sai lầm".
Một người có lòng tin, nếu y nói:"Đây là lòng tin của tôi". Như thế
là y giữ gìn chân lý. Nhưng từ đấy y không thể tiến đến kết luận tuyệt đối:"Chỉ
có đây là chân lý. ngoài ra đều sai lầm". "Rồi Đức Phật dạy tiếp:"
Chấp chặt vào một quan điểm và khinh miệt những quan điểm khác cho là thua kém,
hành động như thế người trí gọi là mù quáng"(W Rahula. What the Buddha
taught).
Quốc vương xứ Magadha (Ma Kiệt Đà) là Ajatasattu (A Xà
Thế) muốn mở mang vưong quốc của mình bằng tham vọng chinh phục xứ Vajji (Bạc Kỳ).
Vua sai đại thần Vũ Xá đến thỉnh ý Đức Phật về việc chinh phục này. Đức Phật rất
tế nhị. Ngài không trả lời câu hỏi trực tiếp của nhà vua, mà Ngài gián tiếp trả
lời bằng cách hỏi Tôn giả Anada tình hình của xứ Vajji bằng 7 câu hỏi:
"Này A Nan, dân Vajji có hội họp thường không?
- Dân Vajji có đoàn kết khi hội họp, đoàn kết khi giải tán
và đoàn kết khi làm việc không?
- Dân Vajji có sống đúng với truyền thống của dân tộc, và
tôn trọng những luật pháp đã được ban hành từ thời xưa không?
- Dân Vajji có tôn kính những bâc trưởng lão trong nước và
nghe theo lời dạy của những vị này không?
- Dân Vajji có cưỡng ép những thiếu nữ và phụ nữ bắt họ phải
sống chung với mình không?
- Dân Vajji có thường xuyên dâng lễ ở các nơi thờ tự không?
- Dân Vajji có bảo vệ và tôn kính các bậc A la hán khiến các
vị ấy tìm đến ở trong xứ để xứ sở được an lạc không?"
Bảy pháp này có thể tóm tắt bằng những danh từ thời đại:
1. Sinh hoạt dân chủ, 2. Tình đoàn kết dân tộc, 3. Nguyên tắc
pháp trị, 4. Sự hòa hợp các thế hệ, 5. Tôn trọng phụ nữ, 6. Tôn kính các tín
ngưỡng, và 7. Ưu đãi các bậc minh triết.
Đây là 7 nguyên tắc giúp quốc gia hưng thịnh và tránh diệt
vong. Sau khi nghe Tôn giả A Nan trả lời rằng dân Vajji đã thực hiện 7 pháp này
rất tốt đẹp, Đức Phật kết luận:"Thế thì dân Vajji sẽ phú cường, không ai
có thể chinh phục được".
2. Hậu quả của những sự tranh chấp
Do tham vọng mù quáng thúc đẩy, kẻ có thế lực thường dùng sức
mạnh để đàn áp kẻ yếu và bắt họ phải khuất phục. Những kẻ bại trận khổ nhục đã
đành mà những người chiến thắng do lửa tham thiêu đốt và oán thù chồng chất
cũng chẳng an lạc gì hơn:
"Chiến thắng gây hận thù,
Thất bại chuốc khổ đau,
Ai từ bỏ thắng bại,
An tịnh liền theo sau".
(Tương ƯngI,102)
Thất bại chuốc khổ đau,
Ai từ bỏ thắng bại,
An tịnh liền theo sau".
(Tương ƯngI,102)
Những kẻ bạo tàn gây đau khổ cho người khác mà mong hưởng được
an vui, điều đó không bao giờ có:
"Ác nghiệp chưa chín muồi,
Kẻ ngu tưởng đường mật.
Ác nghiệp khi chín thật,
Kẻ ngu chuốc khổ đau".
(KPC 69)
Kẻ ngu tưởng đường mật.
Ác nghiệp khi chín thật,
Kẻ ngu chuốc khổ đau".
(KPC 69)
Vì thế, Đức Phật đã dạy khá rõ, kẻ làm ác dù trốn bất cứ
phương trời nào cũng không thể thoát được luật nhân quả:
"Không trời cao biển rộng,
Không hang động, núi rừng.
Đã tạo nghiệp ác độc,
Trên đời hết chỗ dung".
(KPC.127)
Không hang động, núi rừng.
Đã tạo nghiệp ác độc,
Trên đời hết chỗ dung".
(KPC.127)
Có một kẻ thù nguy hiểm hơn bất cứ kẻ thù nào khác trên đời
này, đó là tâm niệm ác của ta. Những kẻ thù ở bên ngòai, chúng ta còn có hy vọng
tránh được, chứ chính ta đã gây nên tội ác thì không sao tránh khỏi quả báo:
"Kẻ thù hại kẻ thù,
Oan gia hại oan gia,
Còn thua tâm niệm ác,
Do chính ta hại ta".
(KPC.42)
Oan gia hại oan gia,
Còn thua tâm niệm ác,
Do chính ta hại ta".
(KPC.42)
Thế nên chỉ có ta mới cứu được ta:
"Mẹ cha hay bà con,
Không làm gì được cả.
Chính nhờ tâm nguyện lành,
Đưa ta lên cao cả".
(KPC.43)
Không làm gì được cả.
Chính nhờ tâm nguyện lành,
Đưa ta lên cao cả".
(KPC.43)
Luật nhân quả có vay có trả, rất công bằng, không thiên vị bất
cứ người nào:
"Giết người bị người giết,
Thắng người, bị người thắng.
Mắng người, bị người mắng.
Hại người bị người hại,
Do nghiệp lực diễn tiến,
Hại người, thành hại mình".
(Tương Ưng I,103)
Thắng người, bị người thắng.
Mắng người, bị người mắng.
Hại người bị người hại,
Do nghiệp lực diễn tiến,
Hại người, thành hại mình".
(Tương Ưng I,103)
Do vậy, những ai muốn sống an lạc tránh mọi sợ hãi, và khổ
đau, hãy theo lời Phật dạy, từ bỏ sát sanh:
"Này gia chủ do nguyên nhân sát sanh mà gây ra sợ hãi,
hận thù ngay trong hiện tại, và sợ hãi, hận thù trong tương lai, khiến cho tâm
cảm thụ khổ ưu. Từ bỏ sát sanh là chấm dứt sợ hãi, hận thù trong hiện tại, chấm
dứt sợ hãi, hận thù trong tương lai, khiến cho tâm không còn cảm thọ khổ ưu. Do
đó, ai từ bỏ sát sanh, người ấy thoát khỏi mọi sợ hãi và hận thù". (Tăng
Chi IIIB. 176).
3. Cần phải từ bỏ hận thù và tàn bạo
Trong cuộc đời này, muốn sống được an vui người ta phải từ bỏ
hận thù. Bởi vì chúng ta không bao giờ có thể dùng hận thù để tiêu diệt hận
thù, mà chỉ có thể dùng đức độ khoan dung mới tiêu diệt được hận thù:
"Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó hại tôi, cướp tôi,
Ai ôm niềm hận ấy,
Hận thù không thể nguôi".
(KPC.3)
Nó hại tôi, cướp tôi,
Ai ôm niềm hận ấy,
Hận thù không thể nguôi".
(KPC.3)
"Hận thù tiêu diệt hận thù
Đời này không thể có,
Từ bi diệt hận thù,
Là định luật nghìn thu".
(KPC.5)
Đời này không thể có,
Từ bi diệt hận thù,
Là định luật nghìn thu".
(KPC.5)
Đem tình thương đáp lại hận thù, đó là một việc làm khó khăn
vô cùng. Cho nên người nào làm được như vậy sẽ được nhân loại cúi đầu khâm phục:
hơn thế nữa người nào tự thắng được mình, đó mới là kẻ chiến thắng tối thượng:
"Dù tại bãi chiến trường,
Thắng nghìn nghìn quân địch,
Không bằng tự thắng mình,
Chiến công ấy vô địch"
(KPC.103)
Thắng nghìn nghìn quân địch,
Không bằng tự thắng mình,
Chiến công ấy vô địch"
(KPC.103)
Tự thắng mình có nghĩa là tự nhiếp phục cái tâm tham dục, ti
tiện, hận thù hay gây ác nghiệp của chính mình. Người nào tâm không nghĩ ác,
thân không làm ác, thì người ấy sẽ không bị ác nghiệp hoành hành:
"Bàn tay không thương tích,
Cầm thuốc độc không sao,
Người không làm việc ác,
Không bị ác nhiễm vào"
(KPC 124)
Cầm thuốc độc không sao,
Người không làm việc ác,
Không bị ác nhiễm vào"
(KPC 124)
Muốn sống an vui hạnh phúc phải biết quý trông mạng sống của
mình, mà quý mạng sống của mình thì không được sát sanh và tán trợ sát sanh:
"Hình phạt ai cũng kinh,
Sinh mệnh ai cũng tiếc,
Lấy ta suy ra người,
Chớ giết, chớ bảo giết".
(KPC.130)
Sinh mệnh ai cũng tiếc,
Lấy ta suy ra người,
Chớ giết, chớ bảo giết".
(KPC.130)
Chẳng những không sát hại sanh linhmà còn phải bao dung độ
lượng đối với những kẻ thù của mình; làm được như vậy, chúng ta mới hưởng được
niềm an vui thanh thản:
"Lành thay chúng ta sống
Từ ái giữa hận thù!
Giữa bao kẻ hận thù
Ta sống không hận thù!"
(KPC.197)
Từ ái giữa hận thù!
Giữa bao kẻ hận thù
Ta sống không hận thù!"
(KPC.197)
Im lặng và tha thứ đời sống sẽ trở nên êm đẹp biết bao!:
"Nếu tự mình im lặng,
Như chuông nứt nhiều đường,
Người ấy chứng Niết bàn,
Hận thù không còn nữa".
(KPC.134)
Như chuông nứt nhiều đường,
Người ấy chứng Niết bàn,
Hận thù không còn nữa".
(KPC.134)
Nhưng trên đời này hạng người im lặng ít nói, khiêm tốn thật
là hiếm hoi:
"Hiếm thấy ai ở đời,
Biết tự chế khiêm tốn,
Tránh mọi lời thương tổn,
Như ngựa hiền tránh roi".
(KPC.143)
Biết tự chế khiêm tốn,
Tránh mọi lời thương tổn,
Như ngựa hiền tránh roi".
(KPC.143)
4. Độ lượng khoan dung trước những công kích
a. Đức nhẫn nhục của Đức Phật
Một thanh niên Bà la môn tên Ambattha đi đến hội chúng của
dòng họ Thích Ca - dòng họ của Phật - không được hội chúng này tiếp đón niềm nở,
nên khi gặp Đức Thế Tôn, ông đã chỉ trích dòng họ Thích Ca một cách kịch liệt:
"Này Gotama, thô bạo là dòng họ Thích Ca, khinh suất là
dòng họ Thích Ca, hung dữ là dòng họ Thích Ca. Dòng họ Thích cA thuộc thành phần
đê tiện không kính nhường Bà la môn, không lễ bái Bà la môn, không tôn trọng Bà
la môn. Này Gotama, như vậy thật không phải lẽ, thật không đúng pháp".
Trước những lời chỉ trích thô lỗ, đầy vẻ giận dữ của
Ambattha, Đức Phật đáp lại một cách từ hòa bình thản:"Này Ambattha, đối với
việc sơ suất nhỏ mọn của dòng họ Thích Ca, thật không đáng để cho ngươi phải bực
mình, nặng lời chỉ trích đến như thế".( Trường Bộ kinh I.90)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu
hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình
và bệnh người. Nhẫn nhục đúng lúc có thể cảm hóa người khác dễ dàng. Do đó, người
hiểu chánh pháp ít khi tranh chấp với đời, như Đức Phật đã dạy trong Tương Ưng
Bộ kinh:
"Này các Tỳ kheo, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời
là tranh luận với Ta. Người nói pháp không tranh luận vơ1i một ai ở đời. Cái gì
người trí ở đời chấp nhận là "không", Ta cũng nói là
"không". Cái gì người trí ở đời chấp nhận là "có", Ta cũng
nói là "có".(Tương Ưng Bộ kinh, III.165).
Sống không tranh chấp là nhờ có trí tuệ hiểu rõ lẽ phải
trái, không bướng bỉnh, ngoan cố, mà luôn luôn cảm thông với tha nhân nên dễ
dàng mở lượng bao dung với tất cả mọi người.
b. Lòng khoan dung của Phật
Một hôm Bà la môn Akkosaka Bharadvàja đùng đùng nổi giận đến
mắng nhiếc Đức Phật thậm tệ. Khi y trút cơn phẫn nộ xong, Thế tôn ôn tồn hỏi:
- Này Bà la môn, nếu như bà con thân hữu đến thăm ngươi, người
sửa soạn cỗ bàn thiết đãi mà họ không nhận thì sao?
- Nếu họ không nhận thì các thức ăn thức uống ấy sẽ về lại
chúng tôi.
- Cũng vậy, này Bà la môn, nay ngươi phỉ báng ta, mắng nhiếc
ta, gây lộn với ta, nhưng ta không nhận; thế thì những sự việc ấy hẳn sẽ về lại
với người thôi(Tương Ưng I.199)
Đối với những người có ác tâm hủy báng, Đức Phật thường kham
nhẫn chịu đựng, hoặc khoan dung tha thứ, hoặc dùng những lời lẽ ôn hòa, nhã nhặn
để đối thoại. Một phương pháp tuyệt diệu nhất của Phật là nêu ví dụ cụ thể để
làm sáng tỏ vấn đề, khiến cho kẻ đối thoại thấy rõ được sai lầm, do đó bày tỏ
thái độ thành khẩn và phục thiện. Nhờ đức nhẫn nhục và lòng khoan dung mà Phật
đã cảm hóa được biết bao người như thế.
5. Trang trải từ tâm đối với muôn loài
Tu tập từ tâm đạt được lợi ích
Sứ mệnh của một Như Lai sứ giả là đem lại thanh bình an lạc
cho tất cả chúng sinh, nhưng muốn cho muôn lòai được hạnh phúc thật sự thì
chính bản thân mình trước hết phải tu tập từ tâm. Chính phương pháp tu tập này,
Đức Đạo Sư đã ân cần trao truyền cho các đệ tử:
"Này các Tỳ kheo, trong khi tu tập lòng từ, vị Tỳ kheo
phải trang trải từ tâm khắp cả bốn phương, cùng khắp vô biên giới, với tâm từ
quảng đại, không hận, không sân; đồng thời cũng trang trải bi tâm, hỷ tâm và xả
tâm như thế đến với tất cả muôn loài"(Trung Bộ kinh I.38).
Là người, ai cũng muốn cộng đồng sinh hoạt chung sống hòa
bình. Nhưng muốn chung sống hòa bình, trước hết mỗi người phải từ bỏ tánh ích kỷ
vị lợi của chính mình, mà tuân theo những quy luật xã hội để đem lại an vui lợi
lạc cho tập thể. Chính Tôn giả Anuruddhà đã phát biểu về nguyên tắc sống chung
hòa bình ấy, khi bậc Đạo Sư hỏi thầy:
- Này Anuruddhà, các ngươi sống hòa bình hoan hỷ với nhau
như nước hòa với sữa, sống nhìn nhau với cặp mắt thiện cảm như thế nào?
- Bạch Thế Tôn ở đây chúng con nghĩ như sau:
"Thật vô cùng lợi ích đối với ta, khi ta được sống
chung với các vị đồng phạm hạnh như vậy".Bạch Thế Tôn, do vậy, đối với các
vị đồng phạm hạnh này, con khởi lên ý nghĩ, lời nói và hành động từ bi khi họ
có mặt cũng như khi họ vắng mặt. Bạch Thế Tôn, con nghĩ như sau:"Ta hãy từ
bỏ tâm vị kỷ của ta và sống thuận theo theo tâm của các Tôn giả này". Do vậy,
Bạch Thế Tôn, chúng con tuy khác thân nhưng giống như đồng một tâm.(Trường Bộ
kinh I.200).
Người có lòng từ chẳng những dễ hòa mình cảm thông với đồng
loại mà còn hưởng được niềm an lạc ngay trong khi ngủ:
"Khi thức không lo âu,
Khi ngủ không sợ hãi,
Phiền não nào động tâm,
Ngày đêm đều thoải mái".
(Tương Ưng1, tr.136)
Khi ngủ không sợ hãi,
Phiền não nào động tâm,
Ngày đêm đều thoải mái".
(Tương Ưng1, tr.136)
Ai cũng mong muốn đời sống của mình được hạnh phúc, an
vui, nhưng ít ai nỗ lực từ tâm. Nếu ai tụ tập từ tâmthuần thục người ấy sẽ hưởng
được 11 lợi ích:
"Này các Tỳ kheo, từ tâm giải thoát được tu tập sung
mãn, sẽ tác thành cỗ xe, thành căn cứ địa, nếu được tích lũy và phát triển sẽ
thành tựu 11 lợi ích sau đây: - Ngủ an lạc; thức an lạc; không ác mộng; được
lòai người ngưỡng mộ; được phi nhân nhân ái kính; được chư thiên bảo hộ; không
bị lửa, thuốc độc, đao kiếm xúc chạm; được thiền định mau chóng; sắc mặt tươi
sáng; khi mệnh chung không hôn ám;nêu chưa thể nhập thượng pháp(đắc quả A la
hán) thì sẽ sinh lên Phạm Thiên giới".(Tăng Chi Bộ kinh IIIB.300).
"Chính nhờ lòng từ bi mà Phật giáo đã được truyền bá khắp
một vùng rộng lớn ở Châu Á một cách êm đẹp, không bao giờ có sự can thiệp của
vũ lực hay uy thế chính trị, không một giọt máu nào phải đổ trong khi truyền
giáo; không một cuộc chém giết nào xảy ra nhân danh Đạo Phật, hay nhân danh Đức
Thế Tôn, thật là hãnh diện biết bao!" (Tiến sĩ K. N. Jayatilleke).
Nguồn : trang nhà Quảng Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét