PGS, TS Nguyễn Thy Khuê
điều trị bằng tia laser (còn gọi là quang đông) |
Biến chứng đáy mắt của bệnh Đái Tháo Đường còn gọi là bệnh
võng mạc ĐTĐ, gây tổn thương các mạch máu nhỏ ở võng mạc. Võng mạc
(còn gọi là đáy mắt) là vùng nhạy cảm với ánh sáng của nhãn cầu,
nơi có các tế bào thần kinh nhận hình ảnh để đưa lên não xử lý.
Bệnh võng mạc ĐTĐ là nguyên nhân hàng đầu gây giảm
thị lực hoặc mù lòa ở các nước phát triển. Tại Việt nam hiện nay
bệnh võng mạc ĐTĐ cũng là nguyên nhân gây giảm thị lực hay gặp ở các
phòng khám chuyên khoa mắt.
Những thay đổi ở
võng mạc của bệnh ĐTĐ:
Các tổn thương thường có ở cả 2 mắt.
Các tổn thương có thể chia làm 2 nhóm chính:
Tổn thương giai đoạn sớm còn gọi là tổn thương nền
hoặc giai đoạn không tăng sinh: tên gọi này do chưa có sự xuất hiện
của các mạch máu mới được tạo ra. Ở giai đoạn này thành mạch máu
bị yếu, tạo ra các túi phình (còn gọi là mạch lựu trên thành mạch
máu), các chất trong huyết tương thấm qua thành mạch gây ra các đốm
xuất tiết, máu cũng có thể thấm qua thành mạch gây ra các đốm xuất
huyết.
Khi bệnh tiến triển nặng hơn nữa các mạch máu nhỏ
bị tắc nghẽn, gây thiếu máu từng vùng ở võng mạc. Các mạch máu
lớn hơn phình to và đường kính không đều (có chỗ phình to, có chỗ
thu nhỏ). Các sợi thần kinh ở võng mạc cũng bị phù nề, vùng trung
tâm của võng mạc (hoàng điểm) có khi cũng bị phù nề gây ra phù
hoàng điểm.
Tổn thương giai đoạn nặng còn gọi là tổn thương tăng
sinh
Đây là giai đoạn nặng nhất của bệnh. Do võng mạc bị
thiếu máu và ảnh hưởng của tăng glucose huyết, các mạch máu mới
được tạo ra (tăng sinh mạch máu), các mạch máu này thường phát triển
không đúng vị trí, thành mạch cũng rất yếu. Chúng có thể phát
triển và chảy máu vào thể kính (thể kính là dịch nằm trong lòng
nhãn cầu), các mô sẹo do tăng sinh mạch máu gây ra có thể làm bong
võng mạc. Nếu các mạch máu tân tạo này phát triển vào đường dẫn
lưu của dịch ra khỏi mắt, áp lực có thể tăng lên trong nhãn cầu gây
ra tăng nhãn áp (còn gọi là cườm nước)
Triệu chứng:
Ở giai đoạn đầu bệnh nhân có thể không cảm thấy gì
bất thường.
Khi bệnh tiến triển hơn có thể gặp:
Cảm giác có đốm đen (ruồi bay), hoặc các sợi màu
đen ở trước mắt
Nhìn mờ
Hình ảnh dao động
Thấy những vùng đen hoặc vùng trống trong cảnh vật
Mù
Mất cảm nhận màu sắc
Nguyên nhân của bệnh võng mạc ĐTĐ
Nguyên nhân chính là tăng glucose huyết. Tăng glucose
huyết làm tổn thương mạch máu, có thể gây tắc mạch
Các yếu tố nguy cơ khác của tổn thương võng mạc:
Thời gian bị bệnh ĐTĐ, bệnh càng lâu, càng có nguy cơ
bị biến chứng ở đáy mắt.
Glucose huyết không ổn định.
Tăng huyết áp
Tăng cholesterol máu
Có thai
Hút thuốc lá
Các biến chứng của bệnh võng mạc ĐTĐ có thể gây
giảm thị lực hoặc mù:
Phù hoàng điểm
Xuất huyết trong thể kính: nếu xuất huyết ít, bệnh
nhân có thể thấy đốm đen trước mắt, nếu xuất huyết nhiều có thể gây
mù cấp tính. Tuy nhiên, máu có thể sẽ tan sau vài tuần hoặc vài
tháng, bệnh nhân có thể nhìn lại được
Bong võng mạc, bong hoàn toàn sẽ gây mù vĩnh viễn
Tăng nhãn áp: có thể gây mù nếu không điều trị kịp
thời.
Làm thế nào để
phòng ngừa bệnh võng mạc ĐTĐ:
Phát hiện sớm các tổn thương ở đáy mắt sẽ giúp xử
trí kịp thời và ngăn ngừa tiến triển của biến chứng.
Ở giai đoạn sớm, bệnh võng mạc ĐTĐ không có triệu
chứng do đó các bác sĩ sẽ tầm soát biến chứng này bằng cách:
Chỉ định khám đáy mắt mỗi năm ở bệnh nhân ĐTĐ type 2
ngay lúc mới chẩn đoán và sau đó mỗi năm bởi bác sĩ chuyên khoa mắt.
Đối với bệnh nhân ĐTĐ type 1, chỉ định khám đáy mắt
5 năm sau khi chẩn đoán.
Nếu glucose huyết ổn định tốt, huyết áp không cao,
không có bất thường mỡ máu, bác sĩ có thể quyết định khám lại đáy
mắt sau 2-3 năm.
Nếu bệnh nhân ĐTĐ có thai, cần khám đáy mắt thường
xuyên vì thai kỳ dễ làm tổn thương mạch máu ở đáy mắt.
Điều trị tốt nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ:
Ổn định glucose huyết tốt, HbA 1c <7%, luyện tập
ít nhất 150 phút mỗi tuần, ăn uống điều độ, theo đúng chỉ dẫn, uống
thuốc đúng theo chỉ dẫn của bác sĩ.
Điều trị tốt huyết áp, giảm muối trong khẩu phần.
Điều trị tốt rối loạn chuyển hóa lipid.
Ngưng hút thuốc.
Khám đáy mắt
Khám đáy mắt được thực hiện bởi bác sĩ chuyên khoa
mắt theo yêu cầu của bác sĩ chuyên khoa ĐTĐ. Để nhìn rõ đáy mắt, bác
sĩ sẽ nhỏ 1 loại thuốc để làm dãn đồng tử (con ngươi), bệnh nhân sẽ
nhìn mờ một thời gian do đó khi đi khám đáy mắt nên có người đi cùng
và không nên tự lái xe.
Đôi khi bác sĩ chuyên khoa sẽ yêu cầu chụp mạch máu
đáy mắt bằng thuốc phát huỳnh quang, sau đó nước tiểu bệnh nhân sẽ
có màu vàng trong một thời gian ngắn.
Các phương pháp
điều trị ở giai đoạn trễ
Các phương pháp này phải được điều trị bởi bác sĩ
chuyên khoa mắt.
Nếu bệnh nhân bị phù hoàng điểm, điều trị bằng tia
laser (còn gọi là quang đông) có thể hồi phục phần nào thị lực.
Thông thường bệnh nhân có thể nhìn mờ 1 ngày sau khi điều trị quang
đông nhưng sau đó sẽ nhìn rõ hơn, dù có thể không hoàn toàn hồi phục
như lúc chưa có biến chứng.
Tia laser cũng được dùng để đốt các mạch máu mọc
không đúng chỗ, để giảm nguy cơ xuất huyết trong thể kính, tăng nhãn
áp và bong võng mạc. Thường sau khi dùng quang đông, sẽ có những vùng
sẹo rải rác ở võng mạc. Một ngày sau khi điều trị bệnh nhân có thể
nhìn mờ, sau đó sẽ bớt nhưng thị trường mắt sẽ bị giảm ở vùng
ngoại biên hoặc mắt sẽ nhìn kém hơn trong bóng tối.
Đục thể kính: khi có xuất huyết trong thể kính, các
bác sĩ chuyên khoa sẽ đục một lỗ nhỏ ở mắt để lấy các sợi máu và
thậm chí cả các mô sẹo mọc trồi vào thể kính, sau đó sẽ bơm ngược
trở lại một ít dịch muối để duy trì hình dạng của nhãn cầu. Sau
đó vẫn có thể cần điều trị tiếp bằng laser.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét