Truyện ngắn của Nguyễn Trí
Xóm có bốn mươi hộ. Điều nầy xóm
trưởng Đào Hớn thông báo cho anh em biết trong quán cà phê chín Đẩu.
Là nói để vui chơi thôi, lại thêm rằng bốn mươi hộ nhưng bốn mươi mốt
nóc nhà, ba mươi tám Phật giáo, còn hai là Công giáo. Thằng Bình-bon
nói:
Vậy là chín mưới tám phần trăm phật còn hai là
công.
Đào Hớn mắng vô mặt:
Mày ăn cái gì mà ngu vậy, tính sao mà chín tám?
Chớ tính sao, ai biết cha nội.
- Lấy ba tám chia cho bốn mươi, nhơn một
trăm, mới gọi là tỉ lệ phần trăm, là ta có chín mươi lăm phần trăm
hiểu chưa ông con?
Thiệt mà nói, dân xóm nầy trên răng dưới
một rổ củ từ. Nghèo nên dốt cũng phải thôi. Đào Hớn có hơn ai, lớp
sáu là hết đát. Xóm không còn ai nên mới được làm xóm trưởng, họp
hành, học tập đâu được thời gian bày đặt ra cái vẽ chớ lạ gì...
Vậy. Dốt nên nghèo và ngược lại. Mà nghèo thì đâu có ai đổ cho dốt,
họ đổ cho số phận. Số phận được
chủ trì bởi ai vậy kìa? Mấy người theo Thiên Chúa Giáo nói là bởi
Đức Chúa Trời. Còn Phật Giáo? Ông Ngọc Hoàng chứ ai vô, và đấng linh
hiển nhất có thể tiếp xúc được với ổng chỉ có đức Thích Ca Mầu
Ni. Chín mươi lăm phần trăm dân xóm không ai không ghé cái nóc nhà thứ
bốn mốt. Cái nóc nầy, tại có nóc nên gọi nhà, chứ thật ra chẳng
biết kêu chi.
Nó tọa lạc
trên đất của bà Thâm má con Thúy. Được dựng lên bởi thầy Nam-tụng.
Trong cái nóc nầy có một tượng Quán Thế Âm lớn bằng con người ta,
Có chuông, mõ, cả bồ đoàn và kinh
kệ. Nam-tụng nghe rằng tu đâu đó, nhưng không đắc nên phải ra đời. Thầy
mặc áo nâu, đầu trọc lóc đi phụ hồ, hiền không thể chê. Bà Thâm cần
sửa cái chuồng heo, liền nhờ thợ. Thợ chỉ đạo thầy Nam ra tay. Bên
không chồng nhưng có đứa con. Bên độc thân đạo hạnh nửa vời, lẹo tẹo
sao đó mà Nam được phép ở luôn trong nhà. Lòng trần có, lòng đạo
cũng có luôn, thầy Nam dựng lên một nơi để có chỗ gọi là tu tại gia.
Xóm nghèo xa chùa
lắm, những chục cây số đường mưa bùn nắng bụi, phải những lễ lớn
như Vu Lan, dân mới lọ mọ đến chùa, còn bình thường, cứ bẩy giờ tối
họ tập trung lại nóc gia thứ bốn mốt mà cầu xin ơn trên phù hộ cho
con và gia đình... chủ yếu thoát nghèo. Họ đến và ai cũng hiểu lòng
thành phải được tượng trưng bằng hiện vật. Ai cũng có xem phim Tây Du
Kí nên cũng biết, muốn có kinh thầy Đường Tăng phải trưng cái bình
bát vàng. Không tiền là không linh, nên chi, ai đến cũng có tí tí,
không nầy thì nọ, chủ yếu trái cây và nhang đèn cúng Phật. Có người
quên mua, nhưng bù lại họ bỏ vô cái đĩa vài đồng bạc lẽ gọi là.
Thấy vậy, thầy Nam đóng một cái thùng sơn son thếp vàng, đề ngoài
hai chữ Công Đức, nên long trọng lắm. Lâu dần, ai cũng thấy tiền bỏ tiện hơn, và tiền chắc hơn.
Bà Thâm ung
dung. Sáng đến tối chầu bên quán chín Đẩu điều binh khiển tướng. Ba
cái tứ sắc vui chơi, ăn thua gì. Lâu lâu xóm trưởng cũng ghé xòe đỡ ghiền. Thầy Nam hiền lắm, vợ muốn
làm chi đó làm. Sáng, sau công phu khuya, thầy dọn vườn, trồng cây, lên
luống hoa. Con Thúy, mới lớp bảy, ưng lên nó tuyên bố nghĩ học, thầy
có khuyên, nhưng má nó nói:
Kệ đi, con gái học
chi nhiều.
Vậy là nhỏ ghé
sòng lượm bài cho má xòe. Bạn bè rủ thì lượn. Nhỏ xin cái di động,
thầy Nam cho ngay. Xóm nghèo nó bảnh nhứt, con một mà. Ai cũng nói bà
Thâm có phước, vớ được ông chồng không cày sâu cuốc bẩm mà có tiền.
Nói vậy chớ ba đồng bạc trong thùng công đức đáng là bao. Đúng vậy. Vợ
chồng thầy Nam đâu có trông vô đó. Cái khác ngon hơn nhiều.
Cái ngon lành
là ba vụ đám ma. Xóm nầy, và mấy xóm lân cận, mỗi lần nhà có
người về với Tây Phương, ai cũng mời Thầy Nam đi tụng. Cái tên
Nam-tụng từ đó mà ra. Mấy dịch vụ mai táng không phải là không có,
nhưng mấy tay chuyên tụng đám, cứ một họ hai đêm ba ngày, bạc triệu đi
lên. Chuyện tang ma, nghĩa tử là nghĩa tận chả ai luận chi tiền, có
điều họ quấy quá, chủ yếu đến ăn nhậu, phê phê vô, kinh tụng đoạn
có, đoạn ê ê a a. Thầy Nam từng ở chùa, đâu thể chối từ chuyện bà
con nhờ cậy. Vậy là bài bản được thầy soạn lại. Khi thù lao thầy
chỉ lấy một nửa so với người ta. Chủ yếu giúp bà con thôi. Và nhờ
vậy nên đám nào cũng có mặt thầy. Thầy có tiền dựng cái chổ thờ
phượng bằng gạch, thêm một pho Thích Ca tọa thiền, nhìn cứ tưởng nóc
nhà thứ bốn mốt là đất Phật chính tông.
Thiên hạ trên ta bà ai cũng mong được nửa
phần Nam tụng. Than ôi, đời đâu phải tiền là tất cả. Nhưng tất cả chỉ vì
tiền mà chạy theo thiếu cái bở hơi tai. Con bé Thúy mới mười sáu
tuổi cũng chả muốn ngữa tay xin tiền má, nó theo bè bạn đi tiếp viên
mấy quán cà phê ngoài lộ mới. Quán xá xứ nầy buôn bán chắc được
lắm nên mỗi quán cần năm sáu đứa trẻ trẻ xinh xinh. Bà Thâm nghe ông
chồng tu hành nói con Thúy lấp ló ở mấy quán mờ mờ, nghe và quan
tâm là hai chuyện khác nhau. Ôi dào, mới mười sáu, con nít ranh, lo chi
cho mệt. Và không lo nên mệt.
Tội nghiệp Nam
tụng. Bây giờ thầy có khổ hơn. Hết công phu tối, công phu khuya, hết
tiền trong thùng công đức, rồi tiền tụng đám ma. Đâu có đủ mà lo cho
con bé ham chơi, dại dột. Lớn bụng lên nó tự giải quyết, gây hậu quả
trầm trọng. Má nó phải bỏ sòng lo cho con.
Hôm qua thiên
hạ gặp thầy Nam đang từng bước chân thiền học, trên đường, tay ôm bình
bát, áo cà sa vàng đi khất thực. Thời nầy ít ai cho thực lắm, bình
bát thầy, không phải vàng, nhưng của bá tánh có thể sắm được vàng
mà lo cho con của vợ.
Buồn thật.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét