T.S. Lê Văn Tâm - Ðại
Học Göttingen, CHLB Ðức
Hiện nay thế giới đang đứng trước nhiều sự việc và hiện tượng
có tác động toàn cầu. Chúng cũng là những thử thách lớn đối với Ðạo Phật và Phật
tử chúng ta.
Về mặt tiêu cực, nạn nhân mãn và suy dinh dưỡng tại nhiều
nơi trên thế giới, bạo lực tàn phá mạnh mẽ các tài nguyên thiên nhiên - có khi
đến độ không thể phục hồi -, cường độ bão lụt gia tăng và quả đất bị hâm nóng dần
là một vài ví dụ điển hình. Bên cạnh đó, hiện tượng suy tôn vật chất và các tiện
nghi máy móc đang lan tràn. Sự xói mòn lòng tin đối với những giá trị truyền thống
ngày càng mạnh mẽ. Ðất nước Việt Nam cũng đang trực diện với những vấn đề tương
tự. Phật tử chúng ta không thể không phân vân tự hỏi : "Mình đã đóng góp đủ
bổn phận vì thế hệ mai sau chưa ?". "Mình đã áp dụng đúng lời Phật dạy
trong sự xây dựng một nếp sống quân bình giữa vật chất và tinh thần trong hoàn
cảnh mà mình đang có mặt ?".
Ngược lại, thế giới cũng đang đứng trước nhiều thuận lợi mới.
Sự chấm dứt chiến tranh lạnh, nổ lực hợp tác giữa những nước đã từng thù nghịch
với nhau, sự lớn mạnh của phong trào giải phóng phụ nữ, sự bành trướng bảo vệ
môi trường và sự truy tầm một nội dung mới cho vấn đề "phát triển lâu bền",
đang làm tiền đề cho những thao thức và cố gắng mới trong sự xây dựng "một
thế giới chung" tốt đẹp hơn. Người Phật tử có thể đóng góp được gì nhằm hổ
trợ và triển khai những việc tích cực ấy ?
Câu hỏi vừa đặt ra cho người Phật tử có lẽ không thừa. Bởi
vì Phật tử nào cũng biết câu "Phật pháp không lìa thế gian pháp" và ý
thức rằng giáo lý của Ðức Phật không là những gì trừu tượng đứng ra ngoài cuộc
đời. Do đó, sự tìm hiểu hoàn cảnh và những sự việc hiện thực, cũng như những xu
thế phát triển của chúng, với chủ đích làm sống động mối tương quan giữa Ðạo Phật
và đời sống thực tại, là một tất yếu. Qua đó, người Phật tử vừa thực hiện được
1 trong 4 lời nguyện lớn : "Pháp môn vô lượng thệ nguyện học", vừa nhận
thức rõ hơn thế nào là những hành động hợp với "khế lý" và "khế
cơ" trong sự xây dựng một nếp sống vì sự giải thoát của mình và vì sự an
lành của chúng sinh.
Sau đây xin gợi ý về "Ðạo Phật đối với vấn đề phát triển
lâu bền và bảo vệ môi trường", nhằm góp phần vào cuộc thảo luận chung
quanh chủ đề "Ðạo Phật và Thời đại".
"Phát triển" là vấn đề trung tâm của mỗi quốc gia.
Xưa nay chưa có một nội dung thống nhất về "phát triển". Bởi vì quốc
gia nào cũng có suy nghĩ và ưu tiên riêng. Hơn nữa, khi hoàn cảnh chuyển biến
thì quan niệm về "phát triển" cũng phải thay đổi để hợp với những yêu
cầu mới. "Phát triển" thường được hiểu qua nghĩa hẹp là "phát
triển kinh tế", là "xây dựng và phát huy mọi tiềm năng sản xuất toàn
quốc, nhằm phục vụ dân chúng với hàng hóa và dịch vụ".
Vào những thập niên 50, 60 phát triển được quan niệm là
"sự tăng trưởng hàng năm về thu nhập quốc dân". Sau đó, nội dung
"giảm nghèo, giảm chênh lệch và giảm nạn thất nghiệp trong quá trình phát
triển kinh tế" đã được đề cao. Phát triển cũng được hiểu như "sự thay
đổi của toàn bộ hệ thống xã hội, nhằm đáp ứng những nhu cầu cơ bản của khối lớn
quần chúng đang cảm thấy thiếu thốn về vật chất và tinh thần" (1). Nói
chung, dầu với nội dung nào đi nữa, vai trò sản xuất hàng hóa, phân phối và
tiêu thụ hàng hóa, vẫn luôn luôn giữ vị trí ưu tiên hàng đầu trong sự phát triển.
Biểu tượng của sự phát triển từ trước đến nay là số lượng ngày càng tăng của sắt
thép được chế tạo, của sự sản xuất cùng tiêu thụ năng lượng và hàng hóa, là tốc
độ bành trướng đô thị, là tốc độ di chuyển và thông tin.
Con người đã không ngừng thi đua nhau trong việc sản xuất.
Chỉ tiêu "ngày càng nhanh, ngày càng nhiều và ngày càng mới" đã được
thần thánh hóa. Nhu cầu về nguyên liệu và chất đốt tăng vòn vọt. Thiên nhiên đã
trở thành nguồn vật liệu không ngừng bị khai thác và khống chế. Thiên nhiên
cũng là nơi tiếp nhận miễn phí mọi loại rác dơ bẩn và chất thải độc hại.
Ðể đạt chỉ tiêu phát triển, bao nhiêu người đã không quan
tâm đến hệ quả của sự khai thác quá độ và sự tiêu diệt các sinh vật "không
ích lợi". Ðối với họ, sự ô nhiễm và hủy hoại môi trường chỉ là những sự kiện
nhỏ, không phải là đề tài để thảo luận. Ðiều này đã phản ánh qua những cố gắng
liên tục suốt hai thế kỷ qua, nhằm phát triển ngày càng tinh vi những phương
pháp và công cụ kỹ thuật phục vụ cho sản xuất. Ngược lại những gì cần thiết và
hữu hiệu cho việc ngăn chận sự phá hoại môi trường và sự giảm thiểu phế liệu,
rác và chất độc... chỉ mới được quan tâm từ hai thập niên. Chúng là những thứ
gây thêm phí tổn sản xuất, nên bị loại ra ngoài các bài tính làm sao đạt được lợi
nhuận tối đa, làm sao mau được giàu có !
Họ không những không chú ý đến sự ô nhiễm môi trường và sự
sát hại sinh thể khác mà còn quên cả bản thân. Họ không còn ý thức rằng mình
đang sống hối hả và căng thẳng, đang bị cuốn hút vào guồng máy cạnh tranh
"thúc cùi chỏ" vì lợi nhuận. Họ không còn hay biết rằng những giá trị
tâm linh đang bị xói mòn, đang bị hào quang của phát triển và tiện nghi vật chất
che lấp. Hiện tượng lẫn lộn giữa hạnh phúc với sự đua đòi nâng cao mức tiêu thụ,
giữa ý nghĩa cuộc sống với của cải ngày càng chồng chất, đã trở nên phổ biến.
Ðối với Ðạo Phật, sự phát triển như vậy là sự phát triển bị
"tham, sân, si" chi phối. Phật tử không thể thản nhiên chấp nhận nó.
Huy chương nào cũng có hai mặt : mặt phải và mặt trái. Sự phát triển cũng vậy.
Chúng ta không thể không quan tâm theo dõi, phát hiện và mổ xẻ mặt trái, mặt
tiêu cực của nó, để nhận thức tường tận hơn đâu là ranh giới mà con người phải
dừng lại và phải chuyển hướng, nếu không tất phải rước đại họa. Hơn nữa, qua đó
chúng ta có thể duyệt lại tinh thần và nguyên tắc hành động nào mà Ðức Phật dạy
có thể đóng góp tốt cho sự xóa bỏ tiêu cực và giảm thiểu tham sân si.
Ðứng giữa lòng thủ đô phồn vinh của một nước phát triển, con
người khó mà không tin cậy con đường phát triển từ 200 năm qua. Những thành tựu
của nó thật huy hoàng. Ðể minh họa điều ấy, xin nêu ra đây một số thành tựu của
3 lãnh vực điển hình : nông nghiệp, y học và công nghiệp.
Thứ nhất, trên lãnh vực nông nghiệp, mặc dù đó đây vẫn còn nạn
đói và suy dinh dưỡng, nông nhiệp, nói chung, đã nuôi nổi số nhân khẩu tăng lên
gấp 5 lần trong vòng 2 thế kỷ qua. Từ năm 1850 đến nay, dân số thế giới, chủ yếu
tại những nước đang phát triển, từ 1,15 tỷ tăng lên 5,7 tỷ (2)(3). Tại Ðức, năm
1950, mỗi nông dân có thể nuôi được 8 người và năm 1989 có thể nuôi đến 59 người.
Nhóm nghiên cứu nông nghiệp quốc tế CGIAR (Consultative Group on International
Agricultural Research) vừa lai tạo được giống lúa mới có năng suất cao hơn 25%
so với các giống hiện tại, mở ra một viễn tượng lạc quan trong việc đáp ứng nhu
cầu thực phẩm trên thế giới.
Thứ hai, trên lãnh vực y học, nhờ nhiều cải thiện tốt về
phương pháp trị liệu và vệ sinh, nên các bệnh tật khủng khiếp, giết người hàng
loạt, như dịch tả, dịch hạch, đậu mùa, ho lao v.v... đã bị đẩy lùi (2). Tỷ lệ tử
vong của trẻ con sơ sinh đã giảm từ 30% vào năm 1870, xuống còn 6% vào năm 1960
và hiện nay, tại nhiều nơi, còn thấp hơn 4%. Thọ mạng con người được kéo dài
hơn 11% trong vòng thời gian ấy. Tại Âu châu, tuổi thọ trung bình năm 1870 là
38, đã tăng lên 70 vào năm 1965 và hiện nay đã vượt cao hơn.
Thứ ba, sự công nghiệp hóa đã trở thành đầu tàu của phát triển
mà quốc gia nào cũng muốn đạt đến. Công nghiệp vừa tạo ra công ăn việc làm và
những khả năng kiếm nhiều tiền, vừa cung cấp vô số mặt hàng và tiện nghi vật chất.
Ti vi, tủ lạnh, xe hơi, máy điều hòa nhiệt độ, máy nói, đó là vài ví dụ điển
hình. Bên cạnh đó, mạng lưới đường xá giao thông hiện đại với tốc độ cao, cũng
thúc đẩy sự phát triển kinh tế và giúp con người đến tận mọi địa điểm trên quả
đất.
Công nghiệp và các hệ thống giao thông đã làm bàn đạp cho sự
đô thị hóa. Năm 1800 thế giới chỉ có 21 thành phố lớn và không thành phố nào có
được 1 triệu dân. 100 năm sau, con số này đã nhân lên gấp 15 lần. Lúc ấy đã có
22 thành phố tập trung hàng triệu người (4). Năm 1950 thế giới đã có 964 chùm
đô thị với hơn 422 triệu người ở; năm 1980 tăng lên 1886 chùm đô thị, với hơn
1,1 tỷ dân cư (5). Thật là kỳ diệu, với một mặt bằng hạn hẹp, đô thị luôn luôn
dung nạp được số dân cư khổng lồ ngày càng tăng lên. Những cao ốc của chúng
ngày càng trở nên đồ sộ, ngất ngưởng chọc trời. Công nghiệp và đô thị không ngừng
phát triển, không ngừng chuyển đổi bộ mặt của quả đất và để lại dấu ấn sâu sắc
của nó trên cảnh quan, trong đời sống kinh tế, xã hội và văn hóa của một nước.
Ba ví dụ nêu trên đã tô son đánh phấn cho sự phát triển vừa
qua; đã gieo vào lòng bao nhiêu người niềm tin sâu sắc về sức mạnh vạn năng của
sự phát triển. Nhưng đó chỉ là mặt tích cực. Nếu nghiêm túc quan sát kỹ, chúng
ta phát hiện ngay mặt trái với nhiều tì vết giữa lớp sơn bóng lộn của nó. Những
tì vết này chính là những hiểm họa không lường được.
Nông nghiệp và y dược, tuy đã tạo ra những điều kiện thuận lợi
cho sự nuôi sống và bảo dưỡng sức khoẻ con người, song chúng cũng hổ trợ cho sự
gia tăng dân số. Chính đà gia tăng dân số một cách nhảy vọt không ngừng đã mang
đến cho nhân loại những khó khăn lớn lao.
Chúng ta thử theo dõi vấn đề này. Dân số thế giới mặc dầu
đang đi vào chiều hướng ổn định, song sự tăng nhảy vọt từ 2 thế kỷ qua, đã tạo
ra những vấn đề khó giải quyết. Theo dương lịch, dân số thế giới vào năm thứ nhất
lên đến 250 triệu người; năm 1650, 550 triệu người; năm 1850, 1,15 tỷ; năm
1940, 2,25 tỷ; và năm 1980, 4,34 tỷ người. Theo đó, lần nhân đôi dân số thế giới
thứ nhất kéo dài 1650 năm; lần nhân đôi thứ hai hạ xuống còn 200 năm; lần thứ
ba, 90 năm và lần thứ tư chỉ còn 40 năm (4).
Tại Việt Nam, nhịp độ tăng dân số còn ngặt hơn. Theo thống
kê từ đầu thế kỷ 19, kể từ năm 1802, lần nhân đôi thứ nhất kéo dài hơn 80 năm,
lần thứ hai còn 40 năm, lần thứ ba, 34 năm và lần thứ tư chỉ còn 24 năm (6).
Eigen, nhà hóa học vật lý được giải Nobel, đã gọi nhịp độ nhân đôi dân số trong
vòng tuổi thọ một đời người là nhịp độ "phù thủy một nhân một" trong
định luật phát triển, tiềm tàng bao hiểm họa khó lường (7).
Thực vậy, nếu chúng ta áp dụng "lý duyên khởi" và
sự suy nghĩ (Khi cái này có thì cái kia có... Do cái kia diệt, nên cái này cũng
diệt), chúng ta thấy được dễ dàng một chuỗi hệ quả và những nguy hiểm do sự gia
tăng dân số nhảy vọt sinh ra. Ai cũng biết, khi dân số tăng lên thì những nhu cầu
về lương thực, nơi trú ngụ, trường học, bệnh xá... tương ứng tăng lên. Những
đòi hỏi về diện tích sản xuất lương thực, về mặt bằng xây dựng và chế biến, về
giao thông và tiếp liệu v.v... cũng phải tăng theo. Ðể thỏa mãn những nhu cầu
và đòi hỏi này, con người đã tăng cường sự tiến công vào môi trường và thiên
nhiên một cách dữ dội và sâu rộng. Nhưng, quả đất chúng ta chịu giới hạn về diện
tích và sức tải. Nó không thể đáp ứng tất cả mọi đòi hỏi và sự bành trướng vô tận
của con người. Con người càng tăng sức ép vào quả đất thì càng tạo ra nhiều mâu
thuẫn và hậu quả tiêu cực mà chính con người phải gánh chịu. Sau đây là vài ví
dụ :
1. Về mặt nông nghiệp, một khi dân số tăng thì diện tích sản
xuất lương thực cũng phải được mở rộng. Từ 1980 đến 1995, tổng diện tích canh
tác thế giới đã tăng 6,3%, từ 1,26 lên 1,34 tỷ ha. Song trên thực tế, diện tích
canh tác cho mỗi đầu người, trong vòng thời gian ấy, đã hẹp lại 24%, từ 0,29 ha
giảm xuống còn 0,22 ha (8). Hoàn cảnh của Việt Nam cũng tương tự. Diện tích
cung cấp lương thực cho mỗi đầu người ngày càng thu hẹp theo đà dân số tăng, từ
0,2 ha năm 1940, đã giảm xuống 0,15 ha năm 1970 và chỉ còn 0,12 ha năm 1980 (9).
2. Thông thường, khi cần mở rộng diện tích canh tác, con người
đã đốn rừng. Tại Việt Nam, hàng năm rừng bị mất khoảng 200.000 ha, trong đó khoảng
50.000 ha là do khai hoang để trồng trọt (10). Rừng càng thu hẹp chừng nào thì
diện tích còn lại càng bị đốn nhanh chừng nấy, để kịp tiếp tế củi, gỗ và nguyên
liệu sản xuất giấy và văn hóa phẩm cho nhu cầu tăng lên theo sự phát triển dân
số. Và hậu quả gì sẽ xảy ra khi rừng bị hủy diệt ?
3. Rừng mất thì đất không được che chở nữa. Mưa gió tấn công
trực tiếp vào mặt đất, rửa trôi, xói mòn lớp phân màu mỡ, khiến cho đất ngày
càng thoái hóa và cuối cùng biến thành sa mạc. Hàng năm, các nước đang phát triển
bị mất đi 6 triệu ha đất nông nghiệp do sa mạc hóa (11). Theo ước tính của Ngân
hàng thế giới, 2/5 diện tích canh tác tại Phi châu, 1/3 tại Á châu và 1/5 tại
châu Mỹ la tinh bị đe dọa trở thành sa mạc do hậu quả đốn rừng, hoặc do chăn
nuôi, do dẫn thủy sai lầm và khí hậu thay đổi.
Tại Việt Nam, hơn 1/4 (12) - tính theo một tài liệu khác :
1/3 (13) - diện tích đất đai toàn quốc đã bị thoái hóa, mất hết sức sản xuất. Ðồi
trọc, bãi hoang đang tiếp tục mở rộng, xóa bỏ địa bàn sinh sống ngày càng cần
thiết cho dân số ngày càng đông đảo !
4. Khi rừng mất, lớp thảm mục điều hòa dòng chảy cũng bị
tiêu diệt theo. Lũ lụt và cường độ phá hoại của nó cũng tăng lên. Qua kết quả
nghiên cứu tại Ấn độ, sự phá rừng đã khiến cho diện tích bị ngập lụt mở rộng
thêm 40 triệu ha trong vòng 25 năm (1960-1984). Mùa màng và đời sống của hàng
triệu người bị đe dọa trầm trọng hơn (14).
5. Sự hủy diệt rừng cũng kéo theo sự hủy diệt trú quán của động
và thực vật hoang dã. 50-90% các loài này đang tập trung tại rừng mưa nhiệt đới
và bán nhiệt đới. Hàng ngàn loài trong số 1,4 triệu đã được kiểm tra, là dược
liệu quí hiếm hoặc là nguồn "gen" cần thiết cho sự lai tạo các giống
cây trồng và vật nuôi phục vụ sự sống con người. Theo tốc độ phá rừng hiện nay,
với 11 triệu ha mỗi năm, đến năm 2040 thế giới sẽ mất đi từ 17% đến 35% loài
trong số 10 triệu. Vào năm 2040, hàng ngày sẽ có từ 20-70 loài bị tuyệt chủng (15).
6. Cây xanh, qua hiện tượng quang hợp, hấp thụ hàng ngày khí
carbonic CO2. Khí CO2 là một trong những loại khí gây ra hiệu ứng nhà kính, hâm
quả đất nóng dần, làm tan các khối băng tại Bắc cực, khiến mực nước biển dâng
cao và tràn ngập, phá hủy đồng bằng thấp ven biển. Sự phá rừng đã làm mất đi một
nhân tố rất quan trọng có khả năng hấp thụ và tích lũy lâu dài một số lượng khổng
lồ của khí CO2, và gián tiếp làm giảm bớt mực nước biển dâng lên.
Các nhà nông nghiệp hiện đại không cần phá rừng nữa. Ðể giải
quyết nhu cầu lương thực, họ đã áp dụng các biện pháp thâm canh, như trồng cây
thuần loại, cơ giới hóa, phun tưới, dẫn nước, bón phân, dùng thuốc diệt sâu rầy
và cỏ dại, lai tạo giống mới v.v... Nhưng những gì đã xảy ra cho môi trường và
con người với những phương pháp canh tác hiện đại ấy ? Nó có đưa lại một chuỗi
hệ quả tiêu cực có hại cho con người không? Ðôi ví dụ sau đây trả lời cho câu hỏi
ấy.
1. Sự trồng cây thuần loại đã đẩy lùi hay tiêu diệt những
loài "không hữu ích". Mặt khác nó đòi hỏi phải sử dụng thuốc diệt họa
chống sâu rầy và nấm bệnh. Những thuốc này sát hại luôn những côn trùng và chim
chóc hữu ích khác. Các cặn thuốc có chứa những chất độc như thủy ngân và
arcenic, theo mưa thâm nhập và đầu độc ao hồ, suối sông và thủy sinh vật. Với
diện tích rộng lớn của nó, nông nghiệp là nguyên nhân quan trọng làm nghèo sự
đa dạng sinh học, đem lại sự mất cân bằng cho nhiều hệ sinh thái, và qua chuỗi
thức ăn, làm hại cả sức khoẻ con người. Hiện tượng bị dị ứng và ngộ độc do thức
ăn còn chứa thuốc diệt sâu rầy đã xảy ra tại nhiều nơi ở Việt Nam.
2. Sự cơ giới hóa, đặc biệt trên lãnh vực thủy lợi với các
máy công cụ nặng dùng để đào xới, đã phá hủy trú quán và tiêu diệt các loài động
và thực vật hoang dã. Hơn nữa, nó tạo ra hiện tượng xì phèn, hóa sình và hóa mặn,
giết hại cỏ cây. Riêng năm 1986, sự hóa mặn đã làm tổn hại khắp thế giới khoảng
60 triệu ha đất nông nghiệp. Nước ngọt luôn luôn chứa một lượng muối nhỏ. Nồng
độ muối này tăng dần sau mỗi lần tưới và một ngày nào đó hóa mặn đất đai. Sự
hoang mạc hóa, sự hóa mặn, hóa sình cũng là những nguyên nhân quan trọng gây ra
nạn đói và suy dinh dưỡng cho 800 triệu người trên quả đất hiện nay. Ngoài ra,
sự dẫn nước vào ruộng cũng làm bành trướng các khuẩn gây bệnh đường ruột và sốt
rét rừng.
3. Chất phosphat và nitrat của phân bón làm tăng độ phú dưỡng
của thủy vực, kích thích sự phát triển nhanh của rong rêu. Rong rêu cướp mất dưỡng
khí và giết hại tôm cá và thủy sinh vật khác tại ao hồ. Qua đó, khả năng làm sạch
nước tự nhiên và sự sống của ao hồ cũng bị diệt theo.
Nói tóm lại, việc thâm canh để tăng sản lượng lương thực và
sự đốn rừng nhằm thỏa mãn nhu cầu nhảy vọt về củi, gỗ, về diện tích trồng trọt
và định cư, đều là những hoạt động chính đáng nhằm phục vụ cho cuộc mưu sinh.
Trong rất nhiều trường hợp, hệ quả dị thời của những hoạt động chính đáng này,
từ 10 hoặc 20 năm trước, lại trở thành sự tàn phá những điều kiện mưu sinh. Trước
những bằng chứng nêu trên, người Phật tử không thể không suy nghĩ, thế nào là
"chánh nghiệp" ?, thế nào là nông nghiệp trong sáng theo quan niệm
"ngũ minh" ?. Phật tử phải hành động và kinh doanh ra sao để thiên
nhiên không bị mang hại, tương tự như "ong hút mật mà không làm hại
hoa", như Ðức Phật đã nhắm nhủ ?
Trong lãnh vực công nghiệp hóa thì thế nào ? Với những thành
tựu huy hoàng của nó, nó có đạt được tiêu chuẩn "minh" theo quan niệm
"công xảo minh" chăng ? Có lẽ là không ! Nền công nghiệp từ 2 thế kỷ
nay cũng gây ra hàng ngàn hiện tượng tiêu cực cho môi trường và con người. Sự ô
nhiểm không khí và nước, rác rến dơ bẩn, tiếng ồn ào nhức óc v.v... là những mối
nguy hại thường trực và phổ biến. Ðất nước chúng ta đang đi trên đà công nghiệp
hóa, không thể không đối diện với những tiêu cực này. Sau đây xin nêu vài ví dụ
cụ thể (2)
1. Công nghiệp - và sự đô thị hóa - đã trực tiếp phá hủy
thiên nhiên để lấy mặt bằng xây dựng và phát triển. Công nghiệp đã biến đổi cảnh
quan và các hệ sinh thái một cách sâu rộng, đã làm đảo lộn những chu trình vật
chất và dòng năng lượng trong sinh quyển, gây khó khăn cho quá trình phục hồi
và thanh lọc tự nhiên. Về mặt khí hậu, trong vòng 40 năm qua, từ 1949 - 1989, mặt
nước biển vùng nhiệt đới đã nóng hơn 0,5 độ C và ẩm hơn 16%. Mưa lục địa tăng
5% (riêng khu vực Sahel tại Phi châu thì ngược lại. Nơi đây, mưa giảm xuống và
hạn hán tăng lên). So với 20 năm trước, tốc độ gió toàn cầu nay thổi nhanh hơn
5-10%, tại nhiều nơi tại khu vực nhiệt đới, thậm chí đến 20%. Ðiều này cắt
nghĩa vì sao cường độ tàn phá của bão tố đã trở nên dữ dội khác thường (17)
2. Các nhà máy, trong quá trình sản xuất, đã không ngừng thải
những chất ô nhiểm và độc hại vào không khí, vào đất và nước. Những khu công
nghiệp lớn, ví dụ như vùng Ruhr nước Ðức, đã thải ra hơn 300 chất. Trong số đó,
nhiều chất gây nên bệnh tật và ung thư. SO2 và NO2 chẳng hạn, chúng là nguyên
nhân gây ra sương mù nguy hiểm (London-smog), từng làm thiệt hại hàng ngàn người
trong quá khứ (hơn 4.000 người chết tại Luân đôn năm 1952). Với nồng độ cao,
SO2 và NOx phá hủy chất diệp lục và ngăn chận sự quang hợp, cũng như sự hấp thụ
khí CO2. Dưới dạng mưa acít, chúng làm chua đất và thủy vực, giết hại tôm cá và
những sinh thể khác. Chúng ăn mòn các công trình kiến trúc và xây dựng, gây ra
những thiệt hại phi thường. Tại Ðức, sự thiệt hại này được ước tính từ 2 đến
3,5 tỷ Ðức Mã mỗi năm. Khí CO làm giảm năng suất lao động và gây chứng nhức đầu,
chóng mặt.
Các kim loại nặng cũng nguy hiểm không kém. Chì làm yếu bắp
cơ, có thể đưa đến liệt bại và biến đổi chức năng của gan, thận và não. Cadmium
gây bệnh Itai-Itai làm méo mó thể dạng của xương v.v... Ðể lọc sạch những chất
độc trong nước, Tây Ðức đã phải bỏ 780 triệu Ðức Mã hàng năm. Ðể giải độc cho đất,
cần phải có một kinh phí khổng lồ khoảng 60 tỷ Ðức Mã. Tại thành phố Hồ Chí
Minh nước và không khí cũng chứa nhiều chất độc và hàm lượng đã vượt trên tiêu
chuẩn vệ sinh cho phép. Hàm lượng bụi và chì đã vượt quá từ 3 đến 11 lần (18).
3. Công nghiệp đông lạnh, điện tử và cả những bình xịt thuốc
cho tóc, đã sử dụng rộng rãi khí CFCI. Khí này làm mỏng tầng khí Ozon và đục thủng
nhiều nơi. Tầng Ozon được xem như cái màn lọc tia cực tím có hại cho sức khoẻ
và mùa màng. Tầng Ozon bị mỏng hoặc bị đục thủng đã để lọt nhiều tia cực tím tấn
công vào con người và sinh vật, làm tăng bệnh ung thư da.
4. Trong vòng 200 năm nay, than dầu được sử dụng thật rộng
rãi. Qua quá trình đốt cháy, chúng đã thải một lượng khí CO2 làm tăng vọt hàm
lượng CO2 trong khí quyển, tạo ra hiệu ứng nhà kính, hâm nóng quả đất. Các khu
công nghiệp thế giới thải hàng năm 24 tỷ tấn CO2 - 80% xuất phát từ những nước
công nghiệp. Trong tương lai, số lượng này còn cao hơn nữa. Theo ước tính của
các nhà khoa học, trong vòng 50 năm tới, nhiệt độ trung bình thế giới sẽ tăng
thêm 1,5 độ C. Trong khi tại Úc châu và Tây Phi châu giảm bớt 1 độ C, tại Việt
Nam, Ấn độ và Âu châu tăng thêm 3 độ C và Bắc cực tăng thêm 5-7 độ C (19)(20).
Sự tăng thêm nhiệt độ này trước hết đã mang đến sự biến đổi
thời tiết, quan trọng hơn nữa là làm băng tan và khiến mực nước biển dâng cao.
Từ năm 1973 đến nay, lớp băng tại Bắc cực mất đi 8% và trên núi Alpe ở Âu châu
chỉ còn 1/2. Ðến năm 2050, mực nước biển có thể dâng lên từ 0,2 - 1,4 mét (21).
Ðiều ấy có nghĩa là nước mặn sẽ phủ ngập các vùng duyên hải thấp và sẽ phá hủy
đồng bằng phì nhiêu và sự sống tại đó. Nó sẽ đưa đến một cuộc di dân ồ ạt lên
những vùng cao, nơi mà diện tích khả canh đã thu hẹp lại bị xói mòn và hoang mạc
hóa. Nếu con người không sớm tìm biện pháp đối phó, có lẽ khó tránh khỏi một cuộc
cạnh tranh sinh tồn gay gắt giữa người với người và một cuộc phá hủy tàn bạo vốn
tài nguyên thiên nhiên còn sót lại !
Những ví dụ tiêu cực nêu trên, đã phơi bày yếu điểm và hiểm
họa của sự phát triển vừa qua. Tính tham dục "ngày càng nhanh, ngày càng
nhiều và ngày càng mới" đã cổ võ và thúc đẩy sự phát triển lòng tham ái,
khiến con người xa rời nếp sống tỉnh thức, xa rời và đối nghịch với thiên
nhiên, đã xô con người vào sự phá hoại những nhân tố mà mình dựa vào để sinh tồn
và phát triển. Sự say mê quyền lợi vật chất đã khiến cho nhiều người quên đi những
lợi ích lâu dài của nhân loại. Những kẻ tiếp tục bảo vệ cho sự phát triển này sẽ
nhún vai lãnh đạm trước những tiêu cực và hiểm họa. Song một ngày nào đó, biết
đâu chính họ và con cháu của họ sẽ trở thành nạn nhân của nghiệp báo đau
thương. Chúng ta có cảm tưởng rằng họ đi giữa cuộc đời với thái độ khá phổ biến
của kẻ lái xe trên đường. Kẻ lái xe thường không nghĩ rằng mình có thể là người
gây ra tai nạn hoặc chịu tai nạn. Trong tiềm thức họ, vấn đề tai nạn là vấn đề
của người khác. Chỉ có người khác mới gây ra tai nạn hay thọ nạn. Ðến khi lâm cảnh
tai bay họa gởi thì đã muộn rồi. Lời Phật trong kinh Pháp cú thấm thía làm sao
! "Kẻ ngu vì tham giàu hại mình hại người" và "Ác nghiệp chưa
chín mùi, người ngu nghĩ là ngọt. Khi ác nghiệp chín mùi, người ngu chịu khổ
đau".
Sớm thức tỉnh "ác nghiệp" của sự phát triển đã
qua, Schumacher, nhà kinh tế học Anh, giữa thập niên 1970, đã đề nghị một mô
hình "Kinh tế Phật giáo" (22), một mô hình kinh tế phi bạo lực, không
bóc lột, song hợp tác với thiên nhiên, dựa trên những nguyên tắc của sinh thái
lành mạnh và trên một nền công nghiệp có khuôn mặt con người. Mô hình kinh tế
này cổ võ con người nên sống theo "chánh nghiệp". Rất tiếc đến nay
chưa có Phật tử nào triển khai áp dụng hoặc lấy đó làm bàn đạp suy nghĩ tiếp về
một đường hướng phát triển vừa hợp với những phạm trù và xu thế của thời đại, vừa
hợp với hoàn cảnh của đất nước và vừa hợp với tinh thần Ðạo Phật. Schumacher là
một bậc trí tuệ lớn, một nhà tiên tri của phong trào sinh thái từ hai thập niên
qua.
Xem tiếp phần 2
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét