Minh Đạt
Chết
là một sự khởi đầu. Nó là con đường đưa đến một sự khởi đầu mới. Nó là
buổi bình minh của những cơ hội mới để ta được hưởng những thành quả mà
đã vun trồng, phù hợp với quy luật Nhân Quả Tự nhiên. Trong khi Bánh xe
Nghiệp vẫn không ngừng quay, luật Luân hồn Sinh tử vẫn luôn vận hành,
ảnh hưởng của nó sau khi chết sâu rộng và trực tiếp hơn nhiều, với khi
còn sống. Vì đơn giản khi vừa sinh ra, rồi lớn lên, con người đã bị lập
trình theo biết bao nhiêu quy định: gia đình, nhà trường, xã hội và tôn
giáo,… rồi được vận hành bên trông cấu trúc vật lý là thân xác. Biết bao
nhiêu gò bó. Biết bao nhiêu kiềm toả. Khi đã chết, Tâm thức thoát khỏi
thân xác, thoát khỏi những quy định, thoát khỏi những ràng buộc của đạo
đức, của tín ngưỡng, của những tổ chức tôn giáo. Tâm thức sẽ vận hành
theo cách của nó. Tự do rất nhiều. Chủ động rất nhiều. Sáng tạo rất
nhiều.
1
Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ là văn bản
chính trị tuyên bố ly khai khỏi Anh của 13 thuộc địa Bắc Mỹ; được tuyên
bố vào 4 tháng 7 năm 1776; đã truyền cảm hứng cho nhiều bài phát biểu
nổi tiếng khác như của Martin Luther King Jr. và Abraham Lincoln; cũng
đã ảnh hưởng đến nhiều tuyên ngôn độc lập của các nước khác như Việt Nam
và Zimbabwe. Trong Bản Tuyên ngôn có đoạn viết nổi tiếng:
“…
Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều
bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm
phạm, trong đó có quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc…”
Đó
là tư tưởng chính của Bản Tuyên ngôn, được dựa trên tư tưởng của John
Locke, triết gia người Anh, thế kỷ 16. Theo John Locke, quyền cơ bản
không thể bị tước đoạt của con người là quyền được sống, sống tự do và sống hạnh phúc. Chính tư tưởng này đã tạo nên sức sống mãnh liệt cho Bản Tuyên ngôn, cho cả quốc gia giàu có và hùng mạnh, Hoa kỳ.
Nhưng
John Locke, ông ta và những người đại diên của 13 thuộc địa Bắc Mỹ khi
tham gia viết Bản tuyên ngôn này, rồi cũng như các Lãnh tụ của Việt Nam,
Zimbabwe và rất, rất nhiều người khác, họ đã bỏ quên một quyền khác. Đó là quyền được chết, chết an bình và chết hỷ lạc. Họ đã bỏ lỡ. Cái
quyền này không kém phần quan trọng hơn cái quyền kia. Nếu bạn đi vào
trong, nếu bạn không tư duy nữa, nếu bạn bắt đầu đi vào con đường tìm
kiếm… thì dường như cái chết lại có nhiều màu sắc sinh động hơn, đa diện
hơn cuộc sống.
Vì đơn giản: Sống và Chết là hai mặt của đồng tiền; là một cặp Nhị nguyên. Tự tử là sựthất bại của cả Sống và Chết.
2
Tôi
không coi tự tử là một tội ác. Nhưng tôi chống lại tự tử. Chống lại tự
tử vì sự ngu xuẩn, vì sự vô tích sự của nó. Tự tử là vô dụng. Tự tử là
vô minh. Điều đầu tiên: Tự tử là thất bại của cuộc sống.
Cuộc
sống của một con người, là món quà của Vũ trụ, món quà của Tự nhiên,
món quà của Thượng đế trao tặng. Nó quý giá vô cùng. Tại sao lại từ bỏ
nó.
Chỉ con người ngu xuẩn, vô minh mới từ bỏ nó, từ bỏ
Cuộc sống. Họ đã đồng nhất bản thể của mình với Vật chất, đồng nhất bản
thể của mình với thân thể, đồng nhất bản thể của mình với suy nghĩ, đồng
nhất bản thể của mình với cảm xúc,… Khi một trong những cái đó bị tổn
thưong, khi một vài thứ trong những cái đó bị tổn thương, khi tất cả
những cái đó bị tổn thương; họ không chịu đựng được và đã ngu xuẩn từ
chối cuộc sống. Họ nhẩy từ trên núi xuống, họ nhẩy từ những nóc toà nhà
cao tầng xuống, họ uống thuốc độc, họ tự mổ bụng… có cả vạn lần cách
thức mà họ tự tử. Không có cách thức nào đi tới cái chết có thể coi là
đẹp, trong những cách thức đó. Tự tử chỉ là sản phẩm của một cuộc sống
thất bại; và thất bại trong cách nó đi tới cái chết.
Hãy
bắt đầu về một câu chuyện về cuộc đời của một người võ sỹ samurai chân
chính cuối cùng, Saigō Takamori. Saigō Takamori (Takanaga, 23/1/1828 –
24/9/1877) là một trong những samurai giàu ảnh hưởng nhất trong lịch sử
Nhật bản. Ông sống vào cuối thời Edo, đầu thời Minh Trị. Huyền thoại nói
rằng, để kết thúc cuộc đời, ông đã thực hành nghi lễ seppuku (mổ bụng
tự sát) sau khi bị thương.
Ông đã từng đảm nhận nhiệm vụ
chỉ huy quân đội Satsuma đóng tại Kyoto. Trong cuộc chiến Boshin, Saigō
chỉ huy quân đội Thiên hoàng trong trận Toba-Fushimi, và dẫn quân đội
Thiên hoàng tiến đến Edo, nơi ông chấp nhận sự đầu hàng của thành Edo từ
Katsu Kaishu. Dưới triều Minh Trị, Saigō vẫn giữ vai trò trọng yếu, và
sự đóng góp của ông là rất cần thiết trong việc phế phiên, lập huyện và
thành lập quân đội theo nghĩa vụ. Ông chủ trương rằng Nhật Bản nên khai
chiến với Triều Tiên, nhưng gặp phải sự chống đối mạnh mẽ của các lãnh
đạo khác. Ông từ bỏ mọi vị trí trong chính quyền của mình và trở về quê
nhà Kagoshima. Rồi, không lâu sau đó, một học viện quân sự tư nhân được
thành lập ở Kagoshima cho các võ sĩ samurai trung thành cũng đã từ bỏ vị
trí của mình để đi theo ông từ kinh đô Tōkyō. Những võ sĩ bất mãn này
dần thống trị chính quyền Kagoshima. Lo sợ một cuộc nổi loạn, triều đình
cử một tàu chiến đến Kagoshima để dỡ vũ khí từ kho súng Kagoshima. Thật
mỉa mai, chính hành động này đã khai mào cho các vụ giao chiến công
khai. Hốt hoảng vì cuộc nổi loạn này, Saigō bị thuyết phục miễn cưỡng
lãnh đạo cuộc nổi dậy Satsuma chống lại triều đình trung ương (Chiến
tranh Tây Nam).
Cuộc nổi dậy bị đè bẹp sau vài tháng bởi
Lục quân Đế quốc Nhật Bản, một đội quân đông đảo bao gồm 300.000 sĩ quan
samurai và binh lính nghĩa vụ và hiện đại hơn về vũ khí. Kết thúc cuộc
nội chiến, kết thúc một cuộc đời nhiều ảnh hưởng, để lại cho hậu thế
nhiều huyền thoại.
Theo tài liệu từ những thuộc hạ (của
ông) nói rằng ông đã đứng thẳng mà thực hiện seppuku (mổ bụng tự sát)
sau khi bị thương. Ông ấy đã thực hành một nghi lễ đi đến cái chết của
các samurai. Có phải vì cuộc đời nhiều ảnh hưởng, nhiều huyền thoại hay
vì hành vi seppuku mà ông đã trở thành người võ sỹ samurai chân chính
cuối cùng?
Seppuku hay Harakiri có nghĩa là tự mổ bụng,
một nghi thức xưa của các samurai Nhật bản. Nghi thức bắt đầu, người
samurai được tắm rửa, mặc áo dài trắng, ăn thức ăn khoái khẩu. Anh ta ăn
mặc theo lễ nghi với cây kiếm đặt trước mặt; ngồi trên những tấm vải
đặc biệt, dụng cụ thực hiện nghi thức mổ bụng được đặt trên một cái đĩa.
Anh ta còn chuẩn bị cho cái chết của mình bằng cách viết một bài thơ từ
thế cú. Hỗ trợ anh ta, có một người kaishakunin, hay giới tá nhân,
người sẽ chém đầu người samurai đã mổ bụng sau khi anh ta đã thực hiện
xong nghi lễ sepukku; đứng cạnh bên. Người samurai sẽ cởi áo kimono, lấy
thanh kiếm ngắn wakizashi hay con dao (tantō) và đâm vào bụng, cắt theo
một đường từ trái sang phải. Người kaishakunin sẽ thực hiện daki-kubi,
đó là một nhát chém gần như đứt hẳn đầu của người Samurai. Do đây là một
kĩ thuật đòi hỏi sự chính xác cao, nên người làm việc này thường là 1
kiếm sĩ lão luyện. Thường 1 nhát chém hoàn hảo theo đúng nghi thức sẽ
được thực hiện ngay sau khi thanh dao vừa ngập vào ổ bụng của người
Samurai.
Thường, một samurai sẽ tự mổ bụng tuẫn tiết khi
bị thất thủ hoặc khi chủ bị chết để tránh bị rơi vào tay quân thù và bị
làm nhục. Mổ bụng tự sát đã được tôn trọng như một phương tiện để chuộc
tội cho sự thất bại hoặc là một hình thức phản đối.
Có hai
vấn đề ở đây. Thứ nhất nếu không có sự kiện thất bại, sẽ không có mổ
bụng tự sát. Thất bại mới phản đối. Thất bại mới mổ gụng tự sát. Thứ
hai, đó là vấn đề danh dự! Tôi nói là danh dự. Bạn nói là danh dự. Tất
cả chúng ta đều nói là danh dự. Nó đúng là danh dự. (Vì ngay tại thời
điểm này, và trong toàn bộ lịch sử loài người, và cả những thời gian sau
này còn có rất nhiều, rất nhiều những con người không có danh dự. Họ cố
gắng níu bám vào vật chất, níu bám vào quyền lực, níu bám vào chức
quyền, làm cả những điều vô xỉ, chúng ta không nói đến những con người
này.) Danh dự, đáng tôn vinh lắm chứ! Nhưng danh dự nó thực sự chỉ là bề
mặt. Bản ngã, cái tôi đã được đánh bóng lên, dưới bề mặt của danh dư.
Bản ngã, cái tôi đã được làm sáng lên sau hành vi Seppuku. Sự loé sáng
của bản ngã, của cái tôi sau hành vi seppuku như một sự an ủi nhiều hơn!
Nó chỉ là vậy thôi. Một niềm an ủi cho danh dự bị tổn thương.
Câu
chuyện thứ hai, là chuyện tình nổi tiếng trong vở kịch của William
Shakespeare, Romeo và Juliet. Vở kịch được viết vào khoảng 1594-1595,
dựa trên một cốt truyện có sẵn, kể về một mối tình oan trái, xảy ra tại
thành Verona, nước Ý, thời Trung Cổ. Hai dòng họ Montague và Capulet có
mối hận thù lâu đời. Romeo, con trai họ Montague và Juliet, con gái họ
Capulet đã yêu nhau say đắm ngay từ cái nhìn đầu tiên tại buổi dạ tiệc
tổ chức tại nhà Capulet. Do là dạ tiệc hoá trang nên Romeo mới có thể
trà trộn vào trong đó. Đôi trai gái này đã bí mật đến nhà thờ nhờ tu sĩ
Laurence làm lễ cưới. Sau đó đã xảy ra một sự việc: do xung khắc, anh họ
của Juliet là Tybalt đã giết chết người bạn rất thân của Romeo là
Mercutio. Để trả thù cho bạn, Romeo đã đâm chết Tybalt. Mối thù giữa hai
dòng họ trở nên sâu sắc hơn. Vì tội giết người nên Romeo bị trục xuất
khỏi Verona và bị đi đày biệt xứ. Tưởng như mối tình của Romeo và Juliet
bị tan vỡ khi Romeo đi đày. Juliet bị cha mẹ ép gả cho bá tước Paris.
Juliet cầu cứu sự giúp đỡ của tu sĩ Laurence. Tu sĩ cho nàng uống một
liều thuốc ngủ, uống vào sẽ như người đã chết, thuốc có tác dụng trong
vòng 24 tiếng. Tu sĩ sẽ báo cho Romeo đến hầm mộ cứu nàng trốn khỏi
thành Verona. Đám cưới giữa Juliet và Paris trở thành đám tang. Xác
Juliet được đưa xuống hầm mộ. Tu sĩ chưa kịp báo cho Romeo, thì từ chỗ
bị lưu đày nghe tin Juliet chết, Romeo đau đớn trốn về Verona. Trên
đường về chàng kịp mua một liều thuốc cực độc dành cho mình. Tại nghĩa
địa, gặp Paris đến viếng Juliet, Romeo đâm chết Paris rồi uống thuốc độc
tự tử, đi theo người tình. Romeo vừa gục xuống thì thuốc của Juliet hết
hiệu nghiệm. Nàng tỉnh dậy và nhìn thấy xác Romeo bên cạnh đã tuyệt
vọng, Juliet rút dao tự vẫn.
Cái chết tang thương của đôi
bạn trẻ đã thức tỉnh hai dòng họ. Bên xác hai người, hai dòng họ đã quên
mối thù truyền kiếp và bắt tay nhau đoàn tụ, nhưng câu chuyện tình yêu
ấy vẫn mãi sẽ là nỗi đau rất lớn trong lòng những người biết đến họ.
Sự
thức tỉnh của hai dòng họ Montague và Capulet không phải đến từ cái
chết của Romeo và Juliet, không phải đến từ hành vị tự tử của đôi bạn
trẻ này. Cái chết vô minh không thể tạo nên kết quả đẹp. Romeo và Juliet
không chết, sẽ còn nhiều cái chết khác xảy ra, và hai dòng họ này vẫn
cứ thù oán nhau.
Đừng nhầm lẫn. Đấy là nỗi đau. Đấy là sự ô nhục. Romeo chết và Paris cũng chết!
Sự
thức tỉnh đến từ Tinh yêu thuần khiết của đôi bạn trẻ. Tình yêu đẹp đó
không liên quan gì tới hận thù. Đáng nhẽ ra đôi bạn trẻ phải tận hưởng
hạnh phúc của mình. Nhưng rồi họ đã không được nhận. Họ đã phải chết bên
nhau. Shakespeare đã cho họ chết bên xác nhau. Hai dòng họ thức tỉnh,
xoá bỏ hận thù để những Tình yêu đơm hoa kết trái. Vị Phật đã toả hương
trong lòng họ. Vị Phật đã đến từ Tình yêu. Tự tử chả có gì liên quan!
Xin đừng nhầm lẫn.
3
Tôi chống lại tự tử còn vì cách nó đi tới cái chết.
Trong
cuốn sách The Tibetan book of Living and Dying, được dịch giả Trí Hải
dịch ra tiếng Việt với tựa đề Tạng thư Sinh Tử, Lama Sogyal Rinpoche đã
kể về nhiều cái chết của các vị Lama. Một trong số đó là cái chết của
Lama Tseten, như sau:
“Cái chết của Lama Tseten là một bài
học sống động. Ông là thày của bà Khandro Tsering Chodron, người “vợ”
tâm linh của thày tôi… Ông tuổi ngoài lục tuần, khổ người khá cao và tóc
đã hoa râm. Ông luôn toả ra một một sự trìu mến thân thương không chút
gắng gượng. Ông là một Thiền giả tu luyện cao, chỉ cần ở bên cạnh ông
cũng đem lại cho tôi một cảm giác thanh bình và trong sáng…
“Ông
đã chết một cách phi phàm. Mặc dù có một tu viện gần đây, ông không chịu
tới, bảo rằng, không muốn để lại cho người ta một cái xác phải thu dọn.
Bởi thế chúng tôi dựng lều trại thành vòng tròn như thường lệ. Khandro
săn sóc cho ông. Chỉ có tôi và bà có mặt trong lều của ông, khi ông cất
tiếng kêo bà sang. Ông nói nhẹ nhàng với Khandro: Này con, điều đó chuẩn
bị xảy ra. Ta không còn gì để khuyên bảo con thêm nữa. Con rất tốt, ta
lấy làm hoan hỷ về con.
“Bà Khandro chạy ra khỏi lều, nhưng ông
nắm tay áo bà lại, nói: Con đi đâu. Bà nói: Con đi gọi Rinpoche. Ông mỉm
cười: Chớ làm phiền ông ấy, không cần thiết. Ông đưa mắt nhìn lên trời
rồi chết. Khandro rời khỏi tay ông và chạy vội ra gọi thày tôi.
“Tôi
ngồi bất động, kinh ngạc khi thấy một người đối mặt với cái chết với
thái độ bình thản… Khandro đã đi mời thày tôi, Jamyang Khyentse. Tôi
không sao quyên được lúc ông khôm lưng để bước vào căn lều. Ông nhìn
Lama Tseten, rồi nhìn sâu vào đôi mắt và bắt đầu khúch khích cười. Ông
bảo: Lagen (Lama già) đừng có trong trạng thái đó. Bây giờ tôi mới hiểu
rằng, thày tôi đã nhìn thấy Lama Tseten đang thực hiện một hành vi Thiền
định đặc biệt để hoà hợp Bản chất của Tâm và Không gian của Thực tại.
Trạng thái đó sẽ được duy trì nhiều ngày cho đên khi ông ấy chết hẳn.
Ông nói tiếp: Ông biết chứ Lagen, nếu ông nhập định này, thì đôi khi có
vài chướng ngại có thể phát sinh. Nào, ta sẽ hướng dẫn ông.
“Sửng
sốt, tôi quan sát những gì xảy ra kết kiếp, và nếu không phải chính mắt
mình trông thấy, thì tôi sẽ không bao giờ tin. Lama Tseten sông lại. Rồi
thày tôi ngồi bên cạnh ông, hướng dẫn cách thức ông đi vào cõi chết…
“Cái
chết của Samten (một nhà sư Tây tạng khác, Minh Đạt chú thích) đã dạy
cho tôi mục đích của sự tu hành; cái chết của LamaTseten cho tôi thấy
rằng, những hành giả thuộc tầm cỡ như ông lúc sinh thời vẫn ẩn dấu những
khả năng kỳ diệu, và đôi khi chỉ bày tỏ chúng một lần mà thôi, vào lúc
chết. Mặc dù còn bé xíu, khi đó, nhưng tôi cũng hiểu rằng, có một sự
lhasc nhau rõ rệt giũa cái chết của Samten và của Lama Tseten. Đó là sự
khác nhau giữa cái chết của một thày tu tử tế có hành trì lúc sinh thời,
và cái chết của một hành giả có nội chứng Tâm linh sâu xa hơn nhiều.
Samten đã chết một cái chết bình thường và chết trong đau đớn, nhưng với
sự bình an của đức tin; còn cái chết của Lama Tseten là một sự thi
triển thần thông của sự làm chủ Tâm ý.”
Một tác phẩm khác
cũng nói về vấn đề này, là Peaceful, Death Joyful Rebirth của Lama Tulku
Thondup, dịch giả Nguyễn Văn Nghệ dịch ra tiếng Việt với tựa đề Chết An
bình, Tái sinh Hỷ lạc.
Cả hai tác phẩm này, các Lama muốn
trao truyền cho mọi người làm sao để hiểu ý nghĩa thực thụ của Cuộc
sống, làm sao có thể chấp nhận Cái chết, và làm sao có thể giúp đỡ người
sắp chết và người đã chết.
Mọi truyền thống Tôn giáo lớn
nhất của Nhân loại, dĩ nhiên trong đó có cả Cơ đốc giáo, đều thừa nhận
rằng, chết không phải là hết. Các Tôn giáo đều nói đến một viễn cảnh về
đời sắp đến. Phật giáo Tây tạng, có thể chia toàn thể Hiện hữu của Con
người thành bốn thực tại liên tục nối tiếp nhau. Đó là: (1) Cuộc sống.
(2) Hấp hối và Chết. (3) Sau khi Chết. (4) Tái sinh. Bốn giai đoạn này
được gọi là bốn Bardo. Tri thức về Cái chết không chỉ có người Tây tạng.
Người Ai cập cổ đại đã rất hiểu biết về vấn đề này. Theo truyền thuyết
Sách về cái chết của người Ai cập, hay còn gọi Sách hướng tới Ánh sáng
là một bản sơ đồ chỉ dẫn, để người chết có thể chọn chỗ Tái sinh. Kinh
nghiệm của phần lớn các Tôn giáo về Chết rất quan trọng.
Chết
là một phần tự nhiên của Sống. Chết là một Bardo của Hiện hữu. Chết là
một thực tại liên tục nối tiếp nhau, cùng với Sống. Những khuynh hướng
tinh thần, những tư tưởng quen thuộc mà con người đã tạo ra và nuôi
dưỡng khi sống, sẽ được tiếp nối sau khi chết. Nếu đã sống thanh thản và
vui vẻ, những hành vi luôn biểu lộ sự an lạc, những lời nói nhẹ nhàng,
những hành động thiện lành, tạo nên sự tin cậy an lành và ấm áp với
người xung quanh,… Thì khi chết, con người đó xa lìa được những câu thúc
của thân xác, những hạn chế về văn hoá, những ảnh hưởng của môi trường,
những biến động của thời cuộc,… và sẽ tự do tận hưởng sự an lạc, vốn là
những thuộc tính thực sự của Tâm thức.
Nhưng nếu con
người đã sống chìm đắm trong những cảm xúc tiêu cực, như lòng hận thù,
như nhưng tư tưởng bạo hành, như những cảm giác sợ hãi,… sự yên bình
không có cơ hội hé rạng trong tim, sự đau khổ trở thành nguồn đau khổ và
sân hận cho những người xung quanh; thì khi chết làm sao con người đó
có thể thấy an bình. Con người đó sẽ gặp lửa, những ngọn lửa bừng bừng,
sẽ gặp bão giông và mù mịt đêm đen. Đó chính là địa ngục, một biểu hiện
của lòng sân hận của chính con người đó.
Đó chính là Nghiệp, karma, đó chính là quy luật Nhân Quả Tự nhiên.
Chết
là một sự khởi đầu. Nó là con đường đưa đến một sự khởi đầu mới. Nó là
buổi bình minh của những cơ hội mới để ta được hưởng những thành quả mà
đã vun trồng, phù hợp với quy luật Nhân Quả Tự nhiên. Trong khi Bánh xe
Nghiệp vẫn không ngừng quay, luật Luân hồn Sinh tử vẫn luôn vận hành,
ảnh hưởng của nó sau khi chết sâu rộng và trực tiếp hơn nhiều, với khi
còn sống. Vì đơn giản khi vừa sinh ra, rồi lớn lên, con người đã bị lập
trình theo biết bao nhiêu quy định: gia đình, nhà trường, xã hội và tôn
giáo,… rồi được vận hành bên trông cấu trúc vật lý là thân xác. Biết bao
nhiêu gò bó. Biết bao nhiêu kiềm toả. Khi đã chết, Tâm thức thoát khỏi
thân xác, thoát khỏi những quy định, thoát khỏi những ràng buộc của đạo
đức, của tín ngưỡng, của những tổ chức tôn giáo. Tâm thức sẽ vận hành
theo cách của nó. Tự do rất nhiều. Chủ động rất nhiều. Sáng tạo rất
nhiều. Điều duy nhất điều kiện hoá Tâm thức là những thói quen mà con
người đã gieo vào dòng Tâm thức.
Điều dễ hiểu, khi Tâm con
người đầy hỷ lạc, thì tất cả những gì nghe thấy, nhìn thấy, cảm nhận
được đều mang lại sự vui vẻ và hoan hỷ. Nhưng khi Tâm con người đang
giận dữ, thì bất cứ điều gì đưa đến, cũng là đưa đến sự khó chịu. Nhưng
phản ứng này xảy ra mạnh mẽ hơn, trực tiếp hơn, vào lúc khi con người
chết; vì đơn giản là rất nhiều ràng buộc và giới hạn đã bị phá bỏ. Nếu
khi chết, con người bị chi phối bởi tham sân si, thì Tái sinh sẽ vào nơi
của Chiến tranh, dịch bệnh, nạn đói và những hiện tượng khủng khiếp
khác. Nếu khi chết, giống như khi con người đã từng sống, tràn ngập lòng
thương yêu, từ bi và an lạc; thì Thế giới mà con người đó hiển thị như
một thế giới của an bình và hỷ lạc.
Sự khuyếch đại này, Phật giáo gọi đó là Cận tử Nghiệp.
Đó chính là lý do mà tôi chống lại tự tử còn vì cái cách đi tới cái chết của nó.
Sài gòn, ngày 10/5/2013.
Tác giả: Cs. Minh Đạt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét