Nguyễn Thị Chân-Quỳnh (* )
Hoạn quan |
Sử sách của ta chỉ
chép tỉ mỉ từ đời Lý, trước đó nước ta có hoạn quan hay không thì không rõ,
nhưng xét ra có lẽ chế độ hoạn quan của ta bắt chước Trung quốc.Theo các sách Chu
lễ và Kinh lễ thì đời nhà Chu các hoạn quan chỉ giữ việc quét dọn,
canh phòng, hầu hạ trong cung cấm, thường được gọi là Tư nhân, hay Yêm doãn
(yêm = thiến, doãn = trưởng quan) sau mới đổi ra hoạn quan nghe tôn quý hơn. (Ở
Việt Nam thường gọi là : nội thị, quan thị, nội giám, ông Giám, ông Bõ).
Tuy tổng số có thể lên
đến 3000 người, nhưng chỉ mộ số ít được giữ việc chuyển đạt mệnh lệnh của vua đến
các phi tần. Những người này đều có tên khắc chữ vàng trên thẻ ngọc. Mỗi khi
vua muốn triệu ai thì chọn thẻ giao cho viên nội giám giữ việc ấy để đem đèn đến
treo trước cửa người cung phi được chọn. Cô này thấy hiệu bèn trang điểm rồi
trút bỏ xiêm y, viên nội giám dùng một cái áo choàng rộng màu đỏ bọc lại rồi ẵm
đến tận cung vua. Sau đó viên này phải ghi rõ ngày giờ vào sổ để nếu sau có
sinh con trai thì đó là bằng chứng.
Theo ông Hoàng Xuân
Hãn thì từ cuối đời Hán hoạn quan mới tiếm quyền trong triều, nắm giữ cả văn
ban lẫn võ ban, kết giao với các đại thần, gây vây cánh...
Năm 1653, vua thấy hoạn
quan lũng đoạn triều chính thái quá bèn ra sắc lệnh không cho những người này
làm quan quá tứ phẩm, cấm dự bàn quốc sự, cấm không đuợc giao hảo với các đại
thần, nếu không sẽ bị họa phân thây. Tuy nhiên, trên thực tế, đạo luật này ít
khi được áp dụng.
I.- NHỮNG HOẠN QUAN
DANH TIẾNG Ở NƯỚC TA
. Lý Nhân Nghĩa. Nói đến hoạn quan đời Lý ai cũng nghĩ
ngay đến Lý Thường Kiệt nhưng viên hoạn quan đầu tiên được nêu tên trong sử lại
là Lý Nhân Nghĩa.
Năm 1028, vua Lý Thái Tổ băng hà, thái tử Phật Mã lên ngôi,
ba vương là Đông Chính, Dực Thánh và Vũ Đức mưu phản, đem quân mai phục trong
Long Thành và ngoài cửa Quang Phục. Thái tử biết có biến sai vệ sĩ phòng giữ và
sai bọn hoạn quan đóng các cửa điện, nhưng dùng dằng không nỡ quyết liệt với
anh em. Nội thị Lý Nhân Nghĩa xin ra đánh, tâu : " Nay ba vương làm phản
thì là anh em hay cừu địch ?...Tiên đế cho điện hạ là người có đức, có thể nối
được chí nên lấy thiên hạ phó thác cho điện hạ, nay giặc đến tận cửa cung mà ẩn
nhẩn như thế thì đối với sự phó thác của tiên đế ra sao ? ". Thái tử lẳng
lặng hồi lâu nói : " Vì ta muốn giấu tội ác của ba vương cho tự ý rút quân
để trọn nghĩa anh em ". Sau thấy ba vương đánh gấp, thái tử liền ủy cho bọn
Lý Nhân Nghĩa và cung quan là Dương Bình, Quách Thịnh, Lý Huyền Sư, Lê Phụng Hiểu
đánh dẹp. Hiểu giết được Vũ Đức, còn Đông Chinh và Dực Thánh chạy thoát.
Đến tháng tư năm 1028, vua Thái Tông đi đánh phủ Trường Yên,
cũng giao cho Lý Nhân Nghĩa ở lại giữ kinh sư, phòng Khai quốc vương làm phản (1).
Xem thế đủ biết Lý Nhân Nghĩa không phải loại hoạn quan nô bộc
mà là người có quyền can gián vua và rất được vua tín nhiệm.
. Lý Thường Kiệt (1019-1105). Lý Thường Kiệt quê ở
Thăng Long, húy là Tuấn, tự là Thường Kiệt. Người cha sung chức Sùng ban lang
tướng. Năm Thường Kiệt 13 tuổi thì mồ côi cha. Người chồng của cô là Tạ Đức thấy
có chí bèn gả cháu gái là Thuần Khanh và dậy cho binh thư Tôn Ngô. Trước năm
1040 Thường Kiệt cũng được học đạo Nho.
Nhờ phụ ấm, lúc đầu giữ một chức quan nhỏ là Kỵ mã hiệu úy.
Năm 23 tuổi (1041) sung chức Hoàng môn chỉ hậu, khi ấy đã là hoạn quan. Có hai
thuyết nói về việc Thường Kiệt tự hoạn :
- Vì vua thấy Thường Kiệt mặt mũi đẹp đẽ nên cho ba vạn quan
bảo tự hoạn để vào cung hầu hạ ;
- Vua Thái Tông đánh Chiêm Thành bắt được Nùng Trí Cao lại
tha về. Thường Kiệt can ngăn, vua cho là thất lễ bắt phải tĩnh thân, sau đó triệu
cho vào hầu cận.
Thuyết đầu có lẽ có lý hơn vì em ông là Thường Hiến cũng là
hoạn quan, chẳng lẽ vua cũng bắt tự hoạn chỉ vì Thường Kiệt " thất lễ
" ? Ông Hoàng Xuân Hãn còn vạch ra rằng từ khi bình Chiêm, tha Nùng Trí
Cao đến khi bắt Thường Kiệt tự hoạn rồi lại trọng dụng chỉ vỏn vẹn có mấy
tháng, thời gian hơi ngăén để làm đủ từng ấy chuyện.
Vào cung chưa được một kỷ (12 năm) Thường Kiệt được thăng Đô
Tri, coi tất cả mọi việc trong cung cấm.
Năm 1054, vua Lý Thánh Tông lên ngôi, Thường Kiệt sung chức
Bổng hành quân quốc Hiệu úy, rồi Kiểm hiệu Thái bảo, một chức rất cao tại triều.
Năm 1601, vua sai ông dẹp loạn ở cõi Tây nam, Man Lào.
Năm 1069, vua Thánh Tông thân chinh đánh Chiêm Thành, phong
ông làm Đại tướng, cho em ông là Thường Hiến giữ chức Tân kỵ vũ úy. Thường Kiệt
bắt được Chế củ, Củ dâng đất chuộc tội được tha về. Thường Kiệt thăng Phụ quốc
Thái phó (chức thứ ba trong hàng Tể chấp) Đao Thụ Nam bình Tiết độ sứ (chức thứ
hai trong hàng tướng) Thượng Trụ quốc, Khai quốc công, Thiên tử nghĩa nam (hàng
vương). Sau lại thăng Thái Úy Đồng Trung Thư môn hạ Bình chương sự (chức thứ
hai sau Thái sư Lý Đạo Thành) trông nom quốc chính.
Năm 1072, Thánh Tông mất, Nhân Tông là con Ỷ Lan Thái phi
lên ngôi. Lý Đạo Thành ở ngôi Tể tướng đã 18 năm, nay làm Phụ chính, tôn Thượng
Dương Thái hậu lên chấp chính nhưng Thường Kiệt lại tôn phò Ỷ Lan, chia thành
hai phe. Bốn tháng sau phe Thường Kiệt thắng, Lý Đạo Thành bị giáng chức.
Năm 1073, vua Nhân Tông ban cho Thường Kiệt chức Đôn quốc
Thái úy, Đại tướng quân, Đại Tư đồ coi việc văn võ kiêm cả chức cấm quan.
Năm 1075, nhà Tống định thôn tính nước ta, Thường Kiệt biết
ý đón đánh, Tống quân thất bại phải lui về.
Năm sau nhà Tống sang báo thù, nhưng thủy quân không tinh
nhuệ bằng quân Nam, lại thất bại lần nữa. Thường Kiệt không muốn chiến tranh kéo
dài, dùng biện sĩ dàn hòa. Năm 1077 Tống lui binh, tổn thất binh sĩ, tiền của rất
nhiều mà chỉ chiếm được có 5 châu miền rừng núi. Thường Kiệt lại dùng mưu kế
chiếm lại 5 châu, khi thì dùng vũ lực, lúc xúi dân cướp phá, hoặc giảng hòa đòi
đất...
Khi đánh Tống, ông làm bài thơ khuyến khích quân sĩ, nay còn
lưu truyền :
Nam quốc sơn hà, Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
dịch nghĩa :
Sông núi nước Nam, Nam đế ở,
Phận định nghìn xưa tại sách Trời.
Như bọn giặc nào sang cướp lấn,
Là thua tan hết lũ bay coi.
Phận định nghìn xưa tại sách Trời.
Như bọn giặc nào sang cướp lấn,
Là thua tan hết lũ bay coi.
(Đại Việt sử lược, tr. 159)
Năm 1082, vua Nhân Tông trưởng thành, tự cầm quyền chính,
cho Thường Kiệt ra trấn giữ Thanh Hóa trong 19 năm.
Đến 1101, Thường Kiệt được triệu về kinh coi hết các việc
trong ngoài cung điện.
Năm 1104, Chiêm Thành quấy nhiễu miền nam, Thường Kiệt lúc ấy
đã 85 tuổi, kéo quân vào, quân Chiêm vội lui, Thường Kiệt cũng không đuổi theo.
Vua chế bài hát tán dương công trạng Thường Kiệt, lại ban thêm chức tước.
Năm 1105, Lý Thường Kiệt mất ở kinh đô, thọ 86 tuổi. Mộ táng
ở làng Yên Lạc, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Được truy phong Nhập nội điện,
Đô tri Kiểm hiệu Thái úy, Bình chương quân quốc trọng sự, Việt quốc công, cho
thực ấp vạn hộ(2).
* Đời Trần
. Phạm Ứng Mộng. Sử chép năm 1253, vua Trần Thái Tông một
hôm chiêm bao thấy thần nhân trỏ vào một người bảo có thể làm Hành khiển (chức
Tể tướng thứ hai, chế độ nhà Lý dành cho hoạn quan). Đến năm 1254, một hôm đi
chơi ngoài thành, vua gặp một người giống hệt người trong mộng bèn cho 400 quan
tiền bảo tự thiến để vào hầu, đặt tên là Ứng Mộng. Sau quả nhiên làm đến chức
Hành khiển(3).
Theo Samuel Baron(4) thì đời Trần có một trong ba hoạn
quan danh tiếng tên là " Ong Ja Tu Lea" ("Ong Ja " trỏ
vào người đáng kính) nổi tiếng vừa nhờ tài trí, thăng chức mau chóng, vừa vì
cái chết bi thảm. Chính ông là người vua Trần đã thấy trong mộng và cho tiền để
tự hoạn, sau làm quan càng ngày càng quyền cao, chức trọng, được mọi người kính
nể, xu nịnh, sợ hãi còn hơn sợ vua. Do đó vua chán ghét, cuối cùng hạ lệnh xử tử
bốn ngựa phanh thây, đem xác đốt thành tro, đổ xuống sông. Như thế thì "
Ong Ja Tu Lea " hẳn là Phạm Ứng Mộng, song không thấy sử chép Phạm Ứng Mộng
còn có tên là " Tu Lea ", và cũng không thấy nói Phạm Ứng Mộng bị xử
tử.
* Đời Lê
. Lương Đăng. Tháng giêng năm 1437, Vua Lê Thái
Tông sai Hành khiển Nguyễn Trãi cùng với Lỗ bộ ty giám Lương Đăng đốc làm loan
giá, nhạc khí, dậy tập nhạc và múa. Đến tháng 5, Nguyễn Trãi tâu : " Bọn
thần sở kiến không giống nhau, thần xin trả lại mệnh ấy ". Lương Đăng dâng
nhạc mới bắt chước quy chế của nhà Minh, định các nghi thức đại triều. Vua theo
đề nghị của Lương Đăng, sai chép lại các nghi thức ấy treo ở ngoài cửa Thừa
Thiên. Vua lễ yết Thái miếu, các quan mặc triều phục làm lễ bắt đầu từ đấy.
Bọn hành khiển Nguyễn Trãi, Tham Tri hạ tịch Nguyễn Tuyển,
Đào Công Soạn, Nguyễn văn Huyến, Tham nghị Nguyễn Liễu tâu : " Đặt lễ, làm
nhạc, được như Chu Công thì mới không có ai chê trách. Nay sai kẻ hoạn quan
Lương Đăng một mình định lễ nhạc, cả nước chẳng nhục lắm ư ? Lễ nhạc của y
không bằng cứ vào đâu, như đánh trống là báo giờ ra chầu buổi sớm, nay vua ra
chầu rồi mới đánh trống. Theo quy chế xưa, lúc vua ra, bên tả đánh chuông hoàng
chung, rồi 5 chuông bên hữu ứng theo. Nay vua ra chầu đánh 108 tiếng chuông, đó
là số nhà sư lần tràng hạt... Làm xe thì đằng trước có diềm, đằng sau mở cửa,
nay mở cửa ở đằng trước, quy chế đời xưa như thế sao ?... " Đăng tâu :
" Thần không có học thuật, không biết quy chế đời xưa, nay làm ra chỉ biết
hết kiến thức của thần, việc nên thi hành hay không là quyền ở bệ hạ, thần đâu
dám chuyên ". Nguyễn Liễu nói : " Từ xưa chưa có hoạn quan nào chuyên
phá hoại thiên hạ như thế ". Hoạn quan Đinh Thắng từ bên trong mắng ra :
" Hoạn quan làm gì mà phá hoại thiên hạ ? Nếu phá hoại thiên hạ thì chém đầu
ngươi trước ". Bèn giao Liễu cho hình quan xét tội, xét án xong, tội đáng
chém, vua đặc chỉ cho thích chữ vào mặt, lưu ra viễn châu(5).
Vua coi chầu lúc ra lúc vào có đập roi dẹp đường bắt đầu từ
đấy.
Tháng 10, Lương Đăng thăng chức Đô giám. An phủ sứ Lạng Sơn,
Bùi Cầm Hổ can : " Tiên đế thấy Lương Đăng biết chút chữ nghĩa cho làm nội
nhân Phó chưởng, nhưng rồi thấy hắn chỉ khúm núm bề ngoài, không thẳng thắn,
không thể gần gũi được mới cho ra làm văn đội. Thế mà nay cho lên chức quan to,
xin bệ hạ nghĩ lại "(6).
Lương Đăng làm quan to nhưng không tham dự triều chính,
không kết bè đảng nắm giữ quyền uy, không giết hại ai, chỉ vì đặt quy chế lễ nhạc
không giống với Trung Quốc mà bị các đại thần xúm nhau lại chê trách.
. Hoàng Công Phụ sinh quán ở Thăng Long, đẻ ra đã
có khuyết tật. Năm 14 tuổi vào hầu trong phủ Chúa Trịnh, dần dần được Chúa tin
dùng, uy quyền tột bậc.
Năm 1739, Trịnh Giang nghe lời Hoàng Công Phụ triệu sĩ tử
vào thi ở phủ đường, cho Trịnh Tuệ đỗ Tiến sĩ cập đệ, đệ nhất danh. Không đầy
vài năm Tuệ làm đến chức Tham tụng đứng đầu các quan trong phủ chúa.
Trịnh Giang mắc bệnh kinh quy, sợ sấm sét, Phụ sai đào hầm
làm cung Thưởng Trì cho ở, không ra đến ngoài nữa, nói vì dâm dục quá nên ác
báo. Rồi Phụ cùng Trịnh Tuệ và đồ đảng chuyên quyền, giết hại đại thần không
kiêng kỵ sợ hãi ai, phủ dịch nặng nề, lòng dân oán thán. Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển
ở Hải Dương xui dân làm loạn, người các xứ Đông, Nam, Bắc theo rất nhiều.
Năm 1740, Thái phi Vũ Thị, mẹ Trịnh Giang và Trịng Doanh, muốn
triệt bớt uy quyền của Phụ, cho Doanh lập " Phủ đề nhiếp ". Phụ ghét
Doanh sáng suốt, quả quyết, chỉ cho ở nhà nhỏ phía nam phủ chúa, lại cấm các
quan không được dùng chữ " Bẩm " khi tâu với Doanh mà phải dùng chữ
" Thân " (=Trình).
Khi tin cáo cấp về Nguyễn Tuyển đến kinh, Phụ nghĩ Tuyển trước
ở nhà mình, có quen biết, muốn thân đi vỗ yên, đem hết binh lính bản bộ theo, bỏ
kinh thành trống. Bọn Nguyễn Quý Kính muốn ép Doanh lên ngôi. Nội giám Phan Lại
Hầu lên tiếng hặc, Tào Thái đem sắc chỉ của vua đến, Phan đứng cạnh la trách.
Đô đốc Đồng tri Trịnh Khuông mắng là vô lễ, sai giam ngục. Nguyễn Công Thái
truyền ý chỉ của Thái phi, Khuê quận công Giáp Nguyễn Khoa (hoạn quan) lên lầu
nổi hiệu trống, các quan lạy mừng Doanh lên ngôi.
Năm 1761, Doanh đặc biệt thưởng công mười người phò lập
mình, trong số đó có Giáp Nguyễn Khoa Khuê quận công được ruộng thái ấp để hưởng
lộc.
Không thấy sử chép số phận Hoàng Công Phụ ra sao(7).
. Phạm Huy Đỉnh ( ?- 1776) người xã Cao Mỗ huyện
Thần Khê. Khi Trịnh Sâm còn là Thế tử, Chính phi của Trịnh Doanh là Nguyễn Thị
Vinh, ngăn không cho Sâm ngồi cùng mâm với Thái tử Lê Duy Vĩ để giữ lễ vua tôi.
Sâm căm giận Thái tử, sau khi lên cầm quyền, năm 1769, mưu với Hoàng Ngũ Phúc
và Phạm Huy Đỉnh vu cho Thái tử thông dâm với cung nhân của Trịnh Doanh, sai Đỉnh
đem thân binh đi bắt. Thái tử biết, trốn vào tẩm điện của vua. Đỉnh đến Đông
cung không tìm thấy, đi thẳng vào điện vua kể tội Thái tử, điệu về phủ Chúa.
Sâm sai lập án, bắt vua ký, giáng Thái tử làm thường dân, giam lại. Năm 1771, lại
vu cho bọn Trần Trọng Lâm, Nguyễn Hữu Kỳ...muốn cướp ngục đem Thái tử ra. Sâm
sai tra tấn, Vũ Bá Xưởng đau quá nhận bừa. Thái tử bị ghép tội xử giảo.
Năm 1773, Đỉnh thăng chức Thự phủ sự (Tể tướng) phủ Chúa. Lê
Quý Đôn tuy tài giỏi, nhưng cả Trịnh Doanh và Trịnh Sâm đều không trọng dụng,
phải kết giao với Đỉnh, sau được giữ chức Bồi tụng (Phó Tể tướng).
Sâm lại nghe Hoàng Ngũ Phúc cho Đỉnh làm Hiệp đốc suất đạo
Thanh Hoá, tước Công hai chữ (nhỏ hơn tước Công một chữ, như Bằng Công thì cao
hơn Bằng Trung Công), phong là Đại vương.
Năm 1776, Thự phủ sự Thiều quận công Phạm Huy Đỉnh mất ở Nghệ
An, truy phong Phúc thần.
Đỉnh là người có tính đố kỵ, hà khắc, thâm độc, nhiều lần
gây ra những vụ án lớn như vụ giết Thái tử Duy Vĩ(8).
. Hoàng Ngũ Phúc (1713 - 1776) người xã Phụng
Công, huyện Yên Dũng, xứ Kinh Bắc. Lúc trẻ tự hoạn để được vào hầu trong cung.
Năm 1740, giữ chức Tả Thiếu giám, tước Việp Trung hầu.
Năm 1743, đề xuất 12 điều quân pháp, được Trịnh Doanh cho
thi hành.
Từ 1744 đến 1750, cùng Phan Đình Trọng dẹp loạn Nguyễn Hữu Cầu,
thu phục lại Kinh Bắc. Cầu phải chạy vào Nghệ An. Phúc được phong Trấn thủ Kinh
Bắc kiêm thống lĩnh Bắc đạo, tước Việp quận công.
Năm 1751 đánh Nguyễn Doanh Phương, bắt được ở Lập Thạch,
công bậc nhất, được phong Đại Tư đồ, Trấn thủ Sơn Nam.
Đến 1765 được ban kim bài khắc bốn chữ " Dự quốc đồng
hưu " (cùng hưởng yên vui, sung sướng với nước).
Năm 1769 cùng Trịnh Sâm và Phạm Huy Đỉnh vu tội cho Thái tử
Duy Vĩ rồi đem giết.
Đến 1774, xin về hưu, được ban cho hiệu Quốc lão.
Sau Sâm lại triệu ra phong Thượng tướng, sai đem 36000 quân
thủy bộ đánh dẹp miền Nam, Phúc luôn luôn thắng trận, tiến đến Phú Xuân, bắt được
Trương Phúc Loan, chúa Nguyễn phải bỏ chạy.
1775 tiến vào Quảng Nam, chiếm được hai đồn Câu Dê và Trung Sơn
rồi mới cho quân tạm nghỉ.
Vì mắc bệnh tê liệt, được trở về Thăng Long. Trên đường về
kinh sư, mất ở trên thuyền tại Vĩnh Dinh (Nghệ An) năm 1776.
Hoàng Ngũ Phúc tư thế oai phong, quân lệnh nghiêm minh, hành
quân rất có kỷ luật. Khi chiếm được Phú Xuân, Phúc thu nhặt những thứ quý giá
dâng chúa Trịnh, còn thì niêm phong.
Thuộc hạ Thế trung hầu Hoàng Đình Thể cướp của dân, Phúc sai
Uông Sĩ Điển tra hỏi, đem trả lại dân rồi không bàn đến chuyện thưởng công đánh
được Lũy Thầy.
Với Nguyễn Nhạc, Phúc tỏ ra viên tướng biết quyền bính, thay
triều đình làm tờ hiểu dụ, ban cho Nhạc mũ áo...
Khi Phúc đi Nam chinh, Sâm mấy lần gửi trát thăm hỏi, đưa chỉ
dụ khen, thưởng vàng bạc, quần áo đồ dùng, sâm quý vài mươi lạng, cho chạy ngựa
trạm đem đến. Lại thăng cho làm Đại Trấn thủ Thanh Hoá...
Phúc ốm nặng còn gửi khải về tâu bàn với Chúa khoan đánh Quảng
Nam, hãy cho quân sĩ nghỉ ngơi vài năm, Sâm nghe theo.
Khi Phúc mất, Sâm bãi chầu.
Phúc có tiếng là người cẩn trọng, việc lớn nhỏ trong quân đều
tự mình xem xét, dụng binh không cậy may rũi, xử sự quả quyết, trung tín, rất
được lòng người. Nguyễn Hữu Chỉnh coi Phúc là quan thầy.
Phúc không có con, nuôi người cháu là Hoàng Đình Bảo (tức quận
Huy) làm con nuôi. Bảo lại lấy con gái chúa Trịnh Doanh. Vây cánh, thuộc hạ của
Phúc đầy triều, quyền uy lừng lẫy dến nỗi dân chúng đồn là Phúc muốn cướp ngôi
để lập " Triều đình Hoàng thị " sau này truyền cho Bảo, đặt ra những
lời sấm truyền :
" Thổ sất vân yểm nguyệt " = con rể là đám mây che
mặt trăng (chỉ chữ " tế " = con rễ, tức Hoàng Đình Bảo).
" Hoàng hoa nhật điệu hương " = hoa vàng càng ngày
càng tỏa hương thơm (chỉ chữ " Việp ", tức Hoàng Ngũ Phúc).
Còn có câu " Một lợn đuổi đàn dê " vì Bảo tuổi hợi
(con lợn) còn Sâm và Khải đều tuổi mùi (con dê) ; Bảo trước tên là Đăng Bảo, có
thể hiểu là �lên ngôi
vua ", Phúc muốn tránh hiềm nghi cho đổi ra Tố Lý, sau mới đổi lại thành
Đình Bảo.
Phúc là một viên tướng lỗi lạc, chiến công, danh vọng nhiều,
đối với chúa Trịnh tỏ ra hết lòng trung trực, duy có chuyện nhúng tay vào vụ giết
Thái tử Duy Vĩ là một hành động không được quang minh.
Sau khi chết được truy tặng Thượng đẳng Phúc thần(9).
* Đời Nguyễn
. Lê văn Duyệt (1763 - 1832) sinh quán làng Bồ Đề,
huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi.
Năm 1780, Nguyễn Ánh biết Duyệt có khuyết tật, sung làm Thái
giám nội dinh.
Năm 1800, Duyệt dùng hỏa công đốt thuỷ trại Tây Sơn ở cửa bể
Thị Nại, thu phục Qui Nhơn.
1812, làm Tổng trấn Gia Định cho đến 1816 thì về kinh.
1820 lại ra giữ chức Tổng trấn Gia Định cho tới khi mất.
Duyệt là một viên tướng tài, giúp Chúa Nguyễn Ánh đánh Trịnh,
dẹp Tây Sơn, biết quyền biến.
Tuy có tính trực ngôn nhưng ngoại giao cũng khôn khéo. Khi sứ
Xiêm đến Hà Tiên, năm 1820, không chịu trình quốc thư, lời lẽ có chỗ không hợp
lệ, triều đình giao cho ông tuỳ nghi hành sự, ông bắt bẻ, sứ Xiêm phải nhận lỗi
và nhất nhất vâng lời. Sứ Xiêm đem vàng bạc tặng, ông không nhận(10).
Là một nhà chính trị xuất sắc, ông rất được lòng dân, người
ta tôn xưng ông là Đức Thượng công.
Lê Văn Duyệt |
Cả hai vua Gia Long và Minh Mệnh đều biệt đãi ông. Khi cha
ông tạ thế, năm 1827, triều đình không những gia phong chức tước, ban tiền bạc,
còn sai quan đến tế và 300 lính hộ tang. Khi ông ốm ở Gia Định, cũng được tạm
nghỉ việc để điều dưỡng, lại cho phép con ông là Kiêu kỵ đô uý Lê văn Yến đi
thăm nom.
Theo người Pháp thì khi vua Gia Long mất, ông có ý muốn tôn
phò dòng chính thống, hậu duệ của Hoàng tử Cảnh, lại khi vua Minh Mệnh lên cầm
quyền, ông khuyên can không nên bạc đãi những công thần người Pháp nên bị vua để
bụng ghét. Sau khi ông mất, năm 1833, vua giao cho triều đình nghị tội mưu phản,
san bằng ngôi mộ, dựng bia đeo xiềng mang hàng chữ " Quyền yêm Lê văn Duyệt
phục pháp xử " (=tên hoạn quan Lê văn Duyệt chịu phép nước ở đây). Sau dân
chúng đổ cho là vì xúc phạm đến mộ phần của ông nên Trời ra tai, nên đến 1835,
vua Tự Đức cho ông phục chức Vọng các công thần Chưởng tả quan, Bình tây tướng
quân, tước quận công và được thờ trong miếu Trung Hưng công thần. Lăng ông ở
Gia Định(11).
Chú thích
1. Toàn Thư I, tr. 190.
Đại Việt Sử lược tr. 117 chép là cửa Quảng Phúc, chứ
không phải Quang Phục, nằm ở phía tây Long Thành, cửa Đại Hưng phía nam, cửa Tường
Phù phía đông, cửa Diệu Đức phía bắc.
2. Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt
3. Cương Mục V, tr. 30 và Toàn Thư II,
tr. 25
4. S. Baron, tr. 64
5. Đến 1442, Đinh Thắng cũng bị giết vì trước khi chịu tử
hình Nguyễn Trãi tỏ ý hối tiếc đã không nghe lời Đinh Thắng, Đinh Phúc.
6. Cương Mục IX, tr. 67 và Toàn Thư III,
tr. 112-125.
7. Cương Mục XVII, tr. 31 và Tục
Biên tr. 159 và Vũ Trung tuỳ bút.
8. Cương Mục XIX, tr.32 và Tục Biên tr.
329.
Hoàng Lê nhất thống chí chép là Nguyễn Quang Đỉnh.
9. Tục Biên tr. 329-404, Cương Mục XIX,
tr. 56-7.
10. Nếu Lê văn Duyệt đúng là viên "Governor" của
Saigon mà Crawfurd đã gặp năm 1822 thì sự thanh liêm, không nhận lễ vật, chỉ là
bề ngoài. (Xin xem phần III, Đời sống).
11. Đại Nam thực lục chính biên V, tr. 132.
(*) Nguyễn Thị Chân-Quỳnh (1931- ) là một tác giả và nhà khảo cứu về sử học Việt Nam. Bà sinh ở Hà Nội đến năm 1952 thì sang Pháp. Bà theo học Đại
học Paris IV (Paris-Sorbonne),
đậu bằng tiến sĩ Anh văn. Bà từng là giảng viên ở Paris-Sorbonne và hợp tác với
ban Việt ngữ đài BBC.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét