Tuấn Công Thư Phòng
Ở Trung Quốc có hai nhân vật
sống cùng thời (500 năm TCN). Họ đều rất nổi tiếng, người được bia đá vinh
danh, kẻ được bia miệng lưu truyền: Đại thánh Khổng tử và Đại bợm Đạo Chích! Họ
đi hai đường khác nhau, nên biết nhau mà không thể gặp nhau, mỗi người tôn thờ
“đạo” riêng của mình. Khổng tử quá nửa đời du thuyết các nước chư hầu để truyền
bá đạo nhân nghĩa.
Đạo Chích đến các nhà giàu có để thực thi nghề đạo tặc. Gã đại bợm khinh
Khổng tử nhà nghèo lại hay thuyết giảng đạo đức. Khổng tử dường như không bận
tâm về cá nhân Đạo Chích vì mối quan tâm của ngài là cả xã hội. Nghe nói Khổng
tử từng làm quan Tư khấu (Tư pháp) nước Lỗ, đại bợm Chích càng thêm ghét.
Một hôm, tình cờ Khổng tử đi qua ngõ nhà Đạo Chích, bị chủ nhà xua con chó
ra cắn. Con chó vốn bản tính tuyệt đối trung thành với chủ, không biết và không
cần biết đó là Khổng tử. Khổng tử bất ngờ bị Đại Khuyển cắn vào bắp chân, máu chảy
ròng ròng. Đường đầy đất đá lổn nhổn, Khổng tử chỉ xuýt xoa đau, không nhặt một
vài hòn ném lại con chó mà lẳng lặng tránh xa. Đạo Chích đứng trong sân nhà
nhìn ra, khoái chí cười ầm lên: “Để xem nhà ngươi còn đi du thuyết được nữa
không?”. Sau đó, hắn đi khoe khoang khắp làng rằng mình mới bảo Đại Khuyển dạy
cho Khổng tử một bài học!
Tuổi đã gần lục tuần, Khổng tử không chu du thiên hạ nữa, chẳng phải sợ lại
bị chó cắn. Ông hoàn toàn thất vọng về đám vua chúa các nước tham vọng tranh bá
đồ vương, không cần biết đến nhân nghĩa. Cái họ cần là đất đai, châu báu, gái
đẹp, và trên hết là quyền uy thiên tử, để tất cả thiên hạ đều phải quỳ mọp dưới
chân mình. Khổng tử trở về mái nhà xưa của cha ông mình để lại, mở trường dạy
học trò, truyền bá đạo làm người. Còn Đạo chích cũng là người nhưng thuộc hạng
vô đạo. Con chó của Đại bợm Chích, tuy được chủ đặt cho cái tên oai vệ “Đại
Khuyển” cũng không thể “làm người”.
Một nhân vật nữa của Trung Quốc đương đại cũng rất nổi tiếng: Chủ tịch Tập
Cận Bình! Ông càng lừng danh, khi dám tuyên bố triệt để bài trừ tham nhũng, sẵn
sàng lôi cổ cả những chúa sơn lâm ! Mới đây, đại danh ông nổi lên như sóng cồn
đại dương, cả thế giới được nghe Tập Chủ tịch lớn tiếng át cả tiếng tàu chiến
cùng máy bay Trung Quốc đang gầm gừ, gào rú dưới biển, trên trời vùng đảo Hoàng
Sa của Việt Nam: “Người Trung Quốc không có gien xâm lược”!
“Người Trung quốc” hay “nhân dân Trung Quốc”? Điều này cần phân biệt rõ.
“Gien” là một danh từ khoa học xuất phát từ phương Tây. “Gien” giống như “tính”
(bản tính) một thuật ngữ Trung quốc từ nghìn xưa giới học thuật đã tranh luận
sôi nổi. Cái “tính” ấy cũng di truyền như cái “Gien” di truyền. Các học giả
Trung Quốc quan niệm vấn đề rạch ròi giữa tính Thiện và tính Ác. Khổng tử không
nói rõ bản tính con người Thiện hay Ác, chỉ nói : “Tính tương cận dã, tập tương
viễn dã” nghĩa là: Chẳng phải thiện cũng không phải ác, nó thay đổi, hình thành
tuỳ theo môi trường sống, hoàn cảnh giáo dục. Mạnh tử khẳng định: Tính người
vốn là Thiện. Tuân tử phủ định: Tính Ác…Ngoài ra có các thuyết: Vừa Thiện, vừa
Ác; thuyết siêu Thiện, Ác… Khổng tử sống cách nay 2.500 năm, thuyết “tập tính”
của ông gián tiếp bác bỏ các thuyết, được nhiều người tán thành. Vì hai anh em
vua Nghiêu, ông Nghiêu là bậc đại hiền (Thiện), ông Tượng là người đại ác, cho
nên ông Nghiêu không truyền ngôi cho em mà truyền ngôi cho ông Thuấn. Tương tự
cái “gien”, không nhất thiết cha “xâm lược” con cũng phải “xâm lược”, cha lương
thiện, yêu hoà bình, con cũng lương thiện, hoà bình. Vậy, cái thuyết “Người
Trung Quốc không có “gien” xâm lược” của Tập tử e khó đứng vững.
Thực ra ông Tập Cận Bình chưa đạt tới hàng “tử” như “chư tử” đời xưa, mà chỉ
là một chính trị gia. Danh ngôn danh thuyết đó của ông là thuật “xảo ngôn” (nói
lừa) “nghịch thuyết” (nói ngược) ! “Người Trung quốc” có Khổng tử, Đạo Chích,
có Nghiêu Thuấn, có Tần Thuỷ Hoàng, có … đều xưng danh “NGƯỜI”. Nhân dân Việt
Nam từ xưa đã nói rất chí lý: “Người năm bảy đấng, của vạn loài”.
Trung Quốc thời phong kiến chia hai dạng người chủ yếu: Quân tử và tiểu nhân.
Và quân tử cũng có chân quân tử, nguỵ quân tử, tiểu nhân cũng có thượng tiểu
nhân và hạ tiểu nhân, v.v… Rừng càng rậm càng lắm cây sâu. Thời đương đại Trung
quốc đông hàng tỷ người, chả lẽ không một thiểu số nào đó có máu “gien” xâm
lược ? Như bản thân tân Chủ tịch, ai dám xếp ông vào loại “tiểu nhân” ? Chắc
ngài phải là đại nhân hay chí nhân quân tử . Vậy thì nhân loại đến ngày tận thế
rồi! Bởi tiêu chí đại nhân với tiều nhân từ nghìn xưa đã được phân định:
“Đại nhân tranh quốc, tiểu nhân tranh thực”. Thực tế lịch sử đã chứng
minh “tranh thực” thì loạn nước, tranh quốc thì mất nước!
Các bạo chúa lớn nhỏ Trung quốc thời nào cũng có, họ khoác áo chính nhân
quân tử, xưng danh “Thiên tử thế thiên hành đạo”, rải thây trăm họ đắp đường
lớn cho kỵ binh tung vó, khơi dòng máu muôn người thành sông sâu để thuỷ quân
lướt sóng; phất cao ngọn cờ “Điếu dân phạt tội” lừa bịp mọi người! Bốn mặt lân
bang với Trung quốc, họ gọi là tứ “di”, tiêu triệt được ba, chỉ còn “Nam man”
(Việt Nam) nuốt mãi không trôi!
Cái thuật “xảo ngôn”, “nghịch thuyết” của ông Tập hẳn là vận dụng từ Bách
gia binh pháp của Trung Quốc.
Nhằm phục vụ chiến tranh, tranh bá đồ vương liên miên trong lịch sử Trung
Quốc, ngoài hàng đống sách Võ kinh, đời nào cũng có người soạn sách Võ bị, Binh
thư…dạy cách đánh thành, cướp nước, giết người, tranh đất…theo quy luật cung
cầu. Khi ông Tập vận dụng “xảo ngôn”, “nghịch thuyết” đánh lừa nhân dân, nói
dối thiên hạ, rất giống thuật “đại bịp” của Đạo Chích. Nghe nói đại bợm Chích
cũng có “Đạo kinh” còn gọi là “Đạo tặc bí pháp”
hay “Đạo Chích bí truyền thư”. Trong “sách” này cũng có thuật
“xảo ngôn”, “nghịch thuyết”. Ví dụ:
Một hôm, Đạo Chích đi chơi thấy một con lừa đang ăn cỏ trên đường vắng, liền
dắt về nhà nuôi. Hàng ngày, cứ đến bữa, Chích một tay cầm dây thừng, một tay
cầm nắm cỏ non trộn cám, hễ giật một cái, nếu con lừa gật cổ theo thì cho ăn,
bằng không thì thôi. Chỉ vài hôm thành thói quen, có khi đói quá, lừa gật đầu
lia lịa. Người chủ mất lừa hỏi thăm đến nhà Đạo Chích. Chích bảo: Con lừa của
tôi nó biết nghe lời chủ, hãy cứ thử xem. Chủ mất lừa giật dây thừng, lừa đứng
im. Đạo Chích giật dây thừng, lừa gật đầu lia lịa vì thấy trong tay Chích cầm
nắm cỏ. Thế là chủ lừa bị Chích lừa cướp mất con vật của mình chỉ vì chút mẹo
vặt.
Đạo Chích chuyên ăn trộm. Chích bắn tin đêm nay sẽ tới thăm nhà Giáp, nhưng
Chích lại trộm nhà Ất. Đêm sau, chích đến nhà Giáp, chủ nhà đêm trước đã thức
suốt đêm để canh, đêm sau ngủ say như chết, bị “khoắng” sạch đồ quý. Mẹo này
của Đại bợm Chích giống kế “Nhất tiễn hạ song điêu” (Một mũi
tên bắn được hai con chim),v.v…
Mưu lược, kế sách của Trung Quốc là nói lừa, nói ngược, có biến thành
không, không hoá thành có, không không, có có… biến hoá khôn
lường. Cho nên ông Tập Cận Bình nói không xâm lược phải hiểu ngược lại có xâm
lược. Bậc thầy của ông Tập là Mao tử. Mao tử dạy: “Đế quốc Mỹ là con hổ
giấy”, tức Đế quốc Mỹ là con hổ thật. Thuyết “Toạ sơn quan hổ
đấu” một thời nổi tiếng lắm, thực chất chỉ là kế “Bạng duật
tương trì, ngư ông đăc lợi” trong Chiến quốc sách, được mông má lại và
dán nhãn mác mới ! Nói “Toạ sơn”, thực tế người Trung Quốc đã “hạ sơn”, không
“quan” mà “hành” như lục lâm thuỷ khấu. Chứng cớ năm 1974 đã cướp sống Hoàng
Sa, trong lúc Việt Nam đang bận tiếp quản miền Nam ! Đây cũng là mẹo Đạo Chích
lợi dụng lúc tranh tối tranh sáng “Thứ nhất chập choạng, thứ nhì rạng
đông” để hành sự. Nếu bị phát hiện thì “Đĩ già mồm, kẻ trộm lắm gan”!
Chiếm đoạt Hoàng Sa là một đột phá biển Đông nhằm thực hiện Liên hoàn kế
trong Tam thập lục kế. Tiếp theo, năm 1988, Trung Quốc âm mưu chớp nhoáng chiếm
trọn quần đảo Trường Sa, nhưng không được như ý. Sau đó tiếp tục nhằm vào các
đảo của Philippin, Nhật Bản…làm cơ sở, chỗ đứng vững chắc cho thuyết “Đường
lưỡi bò chín đoạn” và tạo phản ứng dây chuyền phá hoại an ninh biển Đông. Tham
vọng quá lớn, giống như để quốc Nguyên Mông thế kỷ XIII mưu toan làm bá chủ cả
châu Âu ! Dĩ nhiên thế giới thế kỷ XXI, Trung Quốc dẫu Tần Thuỷ Hoàng sống lại,
cũng không thể hội đủ thiên thời, địa lợi, nhân hoà để thực hiện âm mưu bá chủ,
dù chỉ ở biển Đông.
Việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan 981 tại vùng biển Hoàng Sa Việt Nam nằm
trong Liên hoàn kế, “Đả thảo kinh xà” (Đập cỏ cho rắn sợ) đòn
thăm dò dư luận quốc tế và thử thách ý chí Việt Nam và các nước trong khu vực.
Hơi bất ngờ, Trung Quốc vấp phải sự kháng cự quyết liệt. Việt Nam được sự đồng
tình ủng hộ của đông đảo nhân dân yêu chuộng hoà bình thế giới.
Không kém thâm hiểm là mẹo “chọc tức” (Kích nộ), “Tam thập lục kế” gọi là Khích
tướng kế, như xưa kia Đạo Chích xua chó cắn để chọc tức hòng khiến
Khổng tử nổi giận, tranh giành hơn thua. Nhưng Khổng tử không mắc mưu Đạo Chích
và Đại Khuyển tay sai. Trung Quốc lại tung ra “lá chắn phòng thủ xảo
ngôn, nghịch thuyết” huy động bộ máy truyền thông khổng lồ, tìm cách
lừa tàu Kiểm ngư của ta quá đà đâm vào tàu Trung Quốc để quay phim chụp ảnh vu
khống theo kế “Di thi giá họa” (Đem xác chết đến vu vạ cho
người) rồi chối tội: “Vô trung sinh hữu, vô hữu sinh trung”
(Không có làm thành có, có mà làm thành không). Nói nôm na, cái mẹo của Đạo
Chích “Vừa đánh trống vừa ăn cướp”, “Đã ăn trộm còn la
làng”, thiên hạ không lạ gì !
Văn hoá ứng xử truyền thống nghìn xưa Việt Nam là dùng đại nghĩa thắng hung
tàn, lấy chí nhân thay cường bạo. Năm 1075, quân Tống xâm lược Đại Việt, bị Lý
Thường Kiệt đánh cho tơi bời. Trên đường rút chạy, tàn quân Tống chiếm giữ châu
Quảng Uyên, gần biên giới Trung Quốc, vì ở đây có mỏ vàng. Vua Lý gửi sang biếu
Tống 5 con voi nhà cụt ngà. Đầu tiên vua Tống nghĩ nhà Lý coi nhà Tống như con
voi đã bị cưa mất ngà, nổi giận, toan phát đại binh liều một phen sống mái,
nhưng triều thần có người sáng suốt can rằng: Voi phải cưa ngà, quốc vương An
Nam đề phòng gây tai nạn cho thiên tử. Đó là chí thiện muốn giao hảo…Vua Tống
tỉnh ngộ ban lệnh trả lại châu Quảng Uyên vì ông chợt nhớ binh pháp có câu:
“Lấy thì dễ, giữ thì khó”. Vua Lý sai trả hết số quân Tống bị bắt
trong chiến trận năm 1075. Từ đó, biên cương hai nước bình yên.
Nhiều tấm gương xưa còn soi sáng trong lịch sử. Đáng lẽ Trung Quốc phải sáng
mắt sáng lòng hơn ai hết. Thế mà, ngựa vẫn quen đường cũ ! Người Việt Nam có
câu: “Miếng ngon nhớ lâu, đòn đau nhớ đời”. Tại sao “người
Trung Quốc” không “nhớ” ? Hay đã bị nhừ “đòn”, nên “lữa đòn” không còn biết
“đòn đau” là gì ?
Chúng ta xem lịch sử Trung Quốc, biết người Trung Quốc tham vọng bành
trướng, bá chủ nên thích gây chiến, không ngại binh đao ! Khổng tử, Mạnh tử và
nhiều bậc hiền khác của Trung Quốc đều phản đối chiến tranh, đề cao nhân nghĩa.
Nhưng các bạo chúa đời nào cũng bày đặt ra mưu sâu kế hiểm lừa nhau vào chỗ
chết. Càng nhiều người chết, chiến công càng lớn, lưu danh sử sách ngàn thu !
Một ví dụ điển hình: Tướng Bạch Khởỉ thời Chiến quốc cầm quân Tần phá nước
Triệu, gặp phải tướng Triệu Quát giỏi dùng binh, Khởi lén dùng cung tên bắn
chết, không sợ người đời chê là hèn hạ. Quân nước Triệu thua to, 40 vạn quân
Triệu đầu hàng đều bị Khởi chôn sống!
“Nhất tướng công thành vạn cốt khô” (Một tướng làm nên công
trạng, vạn người chết phơi xương cốt), “Đánh chiếm thành thì người
chết đầy thành, đánh chiếm đất thì người chết đầy đồng” là thực tế mấy
ngàn năm lịch sử xâu xé lẫn nhau và bành trướng xâm lược lân bang của Trung
Quốc.
Quân Nguyên Mông ba lần xâm lược Việt Nam trong vòng 30 năm, tội ác chất cao
hơn núi. Khi tướng sĩ Đại Việt dâng thủ cấp Toa Đô, vua Trần rất thương hại một
đại tướng trí dũng song toàn, vì ngu trung mà chết thảm ! Nhà vua lấy áo ngự
bào làm đồ khâm liệm bọc thủ cấp Toa Đô sai đem chôn cất…Cuộc xâm lược lần thứ
2, năm 1285, nhà Nguyên phát 30 vạn binh do Thái tử Thoát Hoan và đại tướng Ô
Mã Nhi cầm đầu xâm lược Đại Việt. Vua Trần gửi thư xin giảng hoà, quân Nguyên
không cho hoà. Một cuộc chiến không cân sức ! Nhưng với sức mạnh của Đại Việt
vua tôi đồng lòng, quân dân đoàn kết, đã chiến thắng lẫy lừng.
Năm 1286, quân Nguyên lại xâm lược nước ta với lực lượng hùng hậu gần gấp
đôi lần trước: 50 vạn quân ! Lại cũng thất bại ! Đại tướng Ô Mã Nhi khét tiếng
tàn ác bị bắt sống cùng tướng Tích Lệ Cơ Ngọc, giải đến thuyền ngự. Vua Trần
cho hai tướng giặc được ngồi uống rượu cùng vui. Năm 1289, nhà Trần sai đưa bọn
hàng tướng và tù binh Nguyên về Trung Quốc.
Cuối năm 1427, quân Minh không tránh khỏi kết cục thảm bại của cuộc chiến
tranh xâm lược và đô hộ kéo dài 20 năm ! Khi thành Đông Quan bị vây hãm, tướng
chỉ huy Vương Thông, Sơn Thọ đưa thư giảng hoà, xin mở đường cho chúng về nước.
Vua Lê biết nhân dân Trung Quốc đề cao Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Nhưng tàn ác, ngang ngược, và xảo trá là bản tính kẻ xâm lược, nên bằng lòng
cho hoà mà vẫn đề phòng quân Minh tráo trở. Quả nhiên, nửa đêm Vương Thông, Sơn
Thọ mở cửa thành, bất ngờ đánh úp doanh trại nghĩa quân, nhưng bị rơi vào ổ
phục binh của ta, suýt bị bắt sống ! Nghĩa quân tiếp tục vây chặt thành Đông
đô. Vương Thông, Sơn Thọ bị khốn đốn, lại xin giảng hoà. Nhân dân ta bị khổ cực
nhiều năm dưới ách thống trị tàn bạo của quân Minh, nhiều người kéo đến xin Lê
Lợi đừng tin kẻ xâm lược, phải trừng trị để làm gương cho muôn đời. Nhà vua
nói:
-“Việc dùng binh lấy sự toàn quân là hơn cả. Nay hãy để cho Vương Thông về
nước nói với vua Minh trả lại toàn vẹn đất nước ta, không còn trở lại xâm lấn,
thì ta còn cần gì hơn nữa…”
Lê Lợi sai các trấn lộ tu sửa cầu cống, đường sá, sắm sửa đủ ghe thuyền để
cho quân Minh về nước được nhanh chóng, thuận lợi.
Tướng Minh Phương Chính và Mã Kỳ thay mặt các tướng sĩ tới dinh Bồ Đề cáo
biệt vua Lê, ở lại suốt một buổi chiều mới tạ ơn ra về. Lê Lợi sai tặng cho
nhiều vật phẩm, khiến tướng Minh càng cảm kích.
Nhà Thanh theo vết xe đổ nhà Minh, đem 20 vạn binh (hư trương 30 vạn) xâm
lược nước ta. Vua Quang Trung dùng kế “Hạ hoả” gửi thư trần
tình, nhằm: 1-Hạ bớt nhuệ khí địch; 2-Khiến địch chủ quan; 3-Nếu địch biết điều
lui quân thì tốt! Nhưng Tôn Sĩ Nghị vẫn hung hăng, ngang ngược muốn cướp lấy
toàn bộ nước ta, kết cục bị thua to. Trên đường tranh nhau tháo chạy, cầu phao
bị đứt gẫy, rơi xuống sông bị chết đuối hàng vạn người !
Việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan 981 trên vùng biển nước Hoàng Sa là hành
động xâm lược lãnh hải Việt Nam. Ta càng đấu tranh thuyết phục họ bằng lý lẽ,
pháp luật, họ càng hung hăng dùng vũ lực đối phó, chọc tức ta, khiến ta nổi
giận để có cớ gây chiến tranh xâm lược. Dư luận thế giới đề nghị ta đưa vấn đề
ra Toà án quốc tế. Vì không muốn Trung Quốc lại bị bẽ mặt như vụ Philipin, nên
ta mở đường để họ được rút lui trong danh dự. Binh pháp Trung Quốc nói: “Biết
người biết ta trăm trận trăm thắng”. Trong lịch sử, rất tiếc người
Trung Quốc chưa bao giờ biết rõ, đánh giá đúng Việt Nam, học thuộc bài học Việt
Nam, nên trăm trận đại bại cả trăm! Với vụ Hoàng Sa 1974 và việc hạ đặt giàn
khoan 981, Trung Quốc đã vận dụng binh pháp Tôn Ngô hòng “Phản khách vi
chủ” (Biến khách thành chủ). Nhưng lần này rất khác lần trước bởi Việt
Nam là đã là một nước thống nhất, non sông đã thu về một mối. Trong Tam thập
lục kế, kế cuối cùng (thứ 36) là “hạ sách” lại được xem là “thượng sách”. Đó là
“Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách” ! Đạo Chích sở dĩ lừng danh
thiên hạ, cả đời sống bằng nghề đạo tặc mà chưa lần nào bị bắt giải quan vì gã
đại bợm cũng thành thạo kế “Đào tẩu”, hễ thấy việc đào tường khoét vách nhà
người bị lộ, lập tức lủi trốn nhanh hơn cuốc ! Chẳng nhẽ đến giờ ông Tập còn
chưa biết đến kế cuối cùng này ?
Lời bàn: Trung Quốc là đất nước hơn 4 ngàn năm lịch sử như
Việt Nam. Nhưng Trung Quốc luôn cậy mạnh hiếp yếu. Nhà cầm quyền Trung Quốc qua
các thời đại coi thường Khổng tử, đề cao Tần Thủy Hoàng, suy tôn Đạo Chích. Dĩ
nhiên, họ cũng biết Liệt tử sống sau Khổng tử hơn 100 năm được nhân dân Trung
Quốc rất hâm mộ. Một trong những câu nói nổi tiếng của nhà hiền triết họ Liệt
là: “Người có sức mạnh thực sự thì không cậy mạnh. Kẻ cậy mạnh, thực sự
chỉ là kẻ yếu”. Lịch sử xâm lược Trung Quốc và lịch sử chống xâm lược
Việt Nam đã chứng minh lời minh triết Liệt tử.
(Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả)
1 nhận xét:
Bài viết rất hay
Đăng nhận xét