BS NGUYỄN QUÝ KHOÁNG
I/
LỜI MỞ ĐẦU
Từ khi
vào Trung học,tôi đã luôn tự hỏi trong đầu: Mình là ai? Mình từ đâu tới? Mình sẽ
đi về đâu?...Khi lên Đại học, trước khi chọn Y Khoa, tôi đã học lớp Triết tại Đại
học Văn Khoa và dự định sẽ thi vào Đại học Sư Phạm Saigòn để trở thành giáo sư
Triết học. Rồi tôi đậu vào Đại học Y Khoa Saigòn năm 1968 và không thể thực hiện ý định đó nữa.
Nhưng tôi vẫn tìm đọc các sách về Triết học và Tôn giáo với mong muốn trả lời
được những câu hỏi trên. Quyển “Câu chuyện dòng sông ” của Hermann Hesse đã làm cuộc cách mạng tâm linh đầu tiên
trong đời tôi và quyển “Đức Phật và Phật Pháp”của Đại Đức Narada đã khiến tôi
chọn Đạo Phật là đường đi và là lẽ sống cho đến bây giờ.Tôi đã dành thời gian
cho Đạo Phật nhưng đáng kể nhất là từ khi nghỉ hưu nghĩa là khoảng gần 4 năm
nay. Tôi đã tìm được ở Đạo Phật lời giải cho những thắc mắc của mình hồi còn nhỏ
và tôi xin trình bày với quý vị sau đây, nhất là về câu hỏi:Ta là ai? Theo tôi,
câu hỏi này tối quan trọng cho mọi người
vì nếu không biết được mình là ai thì cuộc đời sẽ không có định hướng, không còn ý nghĩa nữa và nhất
là về già, sẽ thật vô vị.
II/
THẾ NÀO LÀ “NGÔ THEO ĐẠO PHẬT?
Ngã hay cái ta gồm thể xác và tinh thần
mà Đạo Phật phân tích ra làm 5 uẩn (“Uẩn”
nghĩa là sự tập hợp thành một nhóm, còn được gọi là “ấm” nghĩa là che mờ. Đó là
vì các yếu tố ở mỗi uẩn, một khi tập hợp lại, tác động lẫn nhau rất khó cho ta
phân biệt rõ chính yếu tố nào trong một uẩn là yếu tố chủ động còn yếu tố nào ở
một uẩn khác là yếu tố phụ thuộc). Đó là:
Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Sắc là nói về Thân xác nghĩa là phần vật chất, 4 uẩn
còn lại thuộc phần tinh thần:
1/Sắc (corps) là phần vật chất mà mắt
mình nhìn thấy được, chính là thân thể con người chia ra 3 phần: đầu, mình và tay
chân. Sắc do tứ đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” tạo thành (Đại có nghĩa là lớn nghĩa là
4 thứ gặp được khắp nơi trong vũ trụ).
-Đất tượng trưng
cho thành phần đặc như xương, cơ, các tạng đặc, mô mềm.
-Nước tượng
trưng thành phần dịch trong và ngoài tế bào, máu, các dịch tiết…
-Gió tượng trưng
cho hơi thở, ợ, ngáp, hắt xì…
-Lửa tượng trưng cho sức nóng trong người (thân
nhiệt của chúng ta trung bình là 37 độ C), chính là năng lượng do biến dưỡng thức
ăn.Trung bình cơ thể con người cần 1800 calories/ngày. Người lao động nặng có
nhu cầu nhiều hơn, khoảng 5500 calories/ngày.
Vậy là về phương
diện Y học (cơ thể học và sinh lý học), chúng ta thấy Đức Phật đã nêu lên đầy đủ
các đặc tính chính của thân thể con người.
2/Thọ (sensation) nói về cảm giác mà
con người có được khi tiếp xúc với ngoại giới bằng các giác quan hoặc qua da
như tê, nhức, đau, nóng, lạnh, dễ chịu, sung sướng. Đây là tính cảm nhận lạc, khổ,
xả thể hiện động lực tình cảm.
3/Tưởng (perception) là tất cả tri giác
được nhận thức bên trong tâm qua sự cảm xúc nơi các giác quan như các sự thấy,
nghe, ngửi. Các hình ảnh cũng có thể do sự suy diễn, tưởng tượng mà ra.Tưởng tuỳ
thuộc xúc và thọ mà sinh khởi nên tri giác về thế giới vật lý hay tâm lý mang
nhiều tính chủ quan, sai lầm dẫn đến khổ đau.
4/Hành
(formations mentales) là tất cả các biến chuyển lần lượt xảy ra bên trong
tâm ý đưa đến các hành động ở bên ngoài, nơi thân và miệng như các động tác của
tay chân, như lời nói nơi miệng lưỡi. Đây là tính thúc đẩy các suy tưởng nơi tưởng
uẩn, bao gồm tiếp nhận hoặc loại trừ, tạo thành nghiệp lành hay ác.
5/Thức
(conscience mentale) nói về sự hiểu biết nơi tâm ý, hoặc về cảnh vật bên
ngoài hoặc về các thay đổi trong nội
tâm. Đây là khả năng hiểu biết, phân biệt về cảm giác hay tri giác phát hiện
khi các giác quan (căn) tiếp xúc với những đối tượng (trần).
Bốn uẩn Thọ, Tưởng, Hành, Thức có liên
hệ bên trong hợp thành phần tinh thần. Vậy thì cái gọi là Ta đâu phải là một
cái gì thuần nhất mà là tập hợp của nhiều thành phần tạo nên thể xác và tinh thần
của con người.
Trường phái Trung Quán phân tách rõ
về hai loại ta: cái ta tương đối
(le Je relatif) và cái Ta
tuyệt đối (le Je absolu).
Thế nào là cái ta tương đối? Cái
ta tương đối là một danh từ giả lập để chỉ năm uẩn. Mỗi khi năm uẩn hợp
lại thì gọi đó là ta (ngã), nó là một danh từ quy ước để xưng hô và chỉ định sự
khác biệt giữa từng cá nhân trong cộng đồng. Thí dụ khi đi chợ, bạn nói
:"Tôi đi chợ". Cái tôi (ta) này thuộc loại giả lập, vì thực tế
có một cái thân này đi chợ chứ không phải cái thân của người khác đi chợ, và cái
ta được chỉ định trên cái thân này, liên quan và tùy thuộc vào thân.
Thế nào là cái Ta tuyệt đối? Cái Ta
tuyệt đối là cái ta tự nó hiện hữu độc lập, tự tánh, không lệ thuộc vào năm
uẩn, thường còn, bất biến, nó hiện hữu như là chủ của năm uẩn, điều khiển năm
uẩn. Thí dụ như có ai chửi bạn, bạn sẽ cảm thấy khó chịu, tức tối :
"Tại sao nó chửi Tôi?" Chính ngay lúc đó, nếu để ý, bạn sẽ thấy
có một cái Tôi (Ta) hiện hữu rõ ràng độc lập không ăn nhằm gì đến thân hay tâm
cả! Cái Tôi (Ta) đó bị chửi, bị tổn thương chứ không phải cái tâm hay
thân bị chửi. Người ta đâu có chửi thân tôi, đâu có chửi tâm tôi, người
ta chửi "Tôi" mà! Cái "Tôi" này chính là cái Ta tuyệt đối, có tự tánh độc
lập. Chính cái Ta này được mọi người nhận lầm là ngã . Cái Ta này thật ra không có (inexistant), nó chỉ là một ảo
tưởng, một lầm chấp. Vì vô minh nên chúng sinh lầm tưởng ta là Ta, cho cái ta (giả danh) là
một cái Ta (tuyệt đối) thật có.Theo Trung Quán Luận, giáo lý vô ngã phủ định
cái Ta tuyệt đối, chứ không phủ định cái ta tương đối.
III/ GIÁO LÝ VÔ
NGÃ
Giáo lý này đã được Đức Phật
Thích Ca giảng tại vườn Lộc Uyển cho 5
anh em ông Kiều Trần Như sau khi Ngài giảng xong Tứ Diệu đế. Kinh Vô ngã tướng
(Anattalakkhana sutta) kết luận bằng một câu ngắn gọn, rất quan trọng:
“CÁI NÀY KHÔNG PHẢI LÀ TA,
CÁI
NÀY KHÔNG PHẢI LÀ CỦA TA,
CÁI
NÀY KHÔNG PHẢI LÀ TỰ NGÃ CỦA TA”
(Để cho dễ hiểu, xin cho phép tôi được chú thích thêm cho chữ “CÁI
NÀY”: Đó chính là “Sắc, thọ, tưởng,
hành, thức”, “cái thân này”, “cái thân-tâm này”, “ cái ta đây”, “cái tôi đây”).
Đức Phật muốn phá bỏ ý niệm sai lầm về bản thể của con người:
1/ Phá bỏ cái chấp thủ vào 5 uẩn, xem đó là Ta như đang có tấm thân
nguyên thuần một khối.
2/ Phá bỏ cái chấp thủ có một
Tự ngã, một linh hồn vô hình bất diệt.Tuy nhiên, Đạo Phật khẳng định là có thần
thức (gồm Mạtna Thức và Alạida thức),vô hình nhưng không bất diệt ( mà là thay
đổi do duyên hợp) và giúp cho sự tái sinh và chuyển nghiệp báo từ đời này qua đời
khác.
Nhân đây,tôi xin kể một câu
chuyện ngụ ngôn Phật giáo để giải thích thêm:
Một ông phú hộ bị bệnh nặng sắp
qua đời bèn gọi 4 bà vợ đến bên giường để trăn trối. Ông mời từng người một
theo thứ tự tình cảm dành cho họ và đề nghị họ theo mình để cùng qua thế giới bên kia.
Bà Tư được ông thương nhất giẫy nẩy lên từ chối và nói: “Tôi sẽ tiễn
ông ra khỏi giường”. Bà Ba lắc đầu quầy quậy và nói: “Tôi sẽ tiễn ông ra khỏi
nhà”. Bà Hai cũng khước từ đề nghị đó và nói “Tôi sẽ tiễn ông đến mộ”. Cuối
cùng bà Cả chấp nhận và nói “Vì tình nghĩa vợ chồng, tôi sẽ theo ông đến chân
trời, góc biển ”.
Câu chuyện đến đây là hết và câu đố được đặt ra cho quý vị là: “Bốn bà
vợ đó là cái gì?”. Xin mời quý vị hãy tạm nghỉ 5 phút và thử tự trả lời xem rồi
mới đọc tiếp.
Sau đây là lời giải:
Ông phú hộ chính là mỗi cá nhân
chúng ta đây.
Bà Tư tượng trưng cho thể xác của
mỗi người. Chính thân thể này là cái ta yêu quí nhất như bà Tư là người vợ út
trẻ đẹp mà ông phú hộ thương yêu nhất.Ta nuôi thân ta bằng những món ăn ngon,vật
lạ cũng như tắm rửa, trang điểm cho nó hàng ngày nhưng khi người ta chết đi thì phải bỏ lại thân xác
này.
Bà Ba tượng trưng cho tiền bạc, của cải như nhà cửa,đất đai…Đây là thứ
người ta cũng rất thích nhưng khi chết đi thì không hề đem theo được.
Bà Hai tượng trưng cho danh vọng, địa vị, người thân như vợ con, anh
em, họ hàng, bạn bè. Khi người đó chết thì các người thân tiễn đến mộ và đọc điếu
văn.
Còn bà Cà tượng trưng cho Nghiệp báo mà khi sống, ông phú hộ không hề
để ý đến vì bà ấy già cả và xấu xí cũng như người ta khi làm một việc gì thì chỉ
nghĩ đến lợi ích của mình và bất chấp hậu
quả sau này nhưng tiếc thay nghiệp báo lại theo mình như bóng với hình qua kiếp
sau.
Câu chuyện trên muốn nhắn nhủ chúng ta rằng cái thân xác mà chúng ta
cho là ta thì chỉ là giả tạm. Người thân, tiền bạc, của cải, danh vọng…chỉ là
phù du. Vấn đề chính là khi còn sống, chúng ta hãy sống lương thiện, giúp đỡ mọi
người, tránh làm việc ác thì như Đức
Dalai Lama nói, khi sống thì ta được hạnh phúc, khi chết thì ta được bình an. Trái
lại, nếu ta làm điều ác thì ta phải lãnh quả xấu ngay trong kiếp này hoặc trong
kiếp sau. Đây chính là nghiệp báo.
IV/ VẬY TA LÀ AI?
Theo Đạo Phật, cái gọi là Ta chỉ là giả tạm,
do duyên hợp mà có, thay đổi thường xuyên theo luật vô thường và khi hết duyên
thì sẽ tan rã. Để dễ hiểu hơn, tôi xin phép xét cái Ta qua 3 tiêu chuẩn sau
đây:
1/Xét về không gian:
a/Về thể xác, các thành phần đất,
nước, gió, lửa chỉ là do vay mượn từ bên ngoài bằng chứng là những thức ăn sau
khi vào miệng, sẽ được nghiền nát rồi tiêu hoá, cuối cùng các chất bã được thải
ra ngoài. Còn không khí hít vào phổi sau khi đã diễn ra sự trao đổi dưỡng khí với
thán khí thì sẽ được thải ra ngoài. Mỗi ngày, ta hít thở 26000 lần và cần một
lượng không khí là 12.000 lít. Rồi cái vòng đó lại tiếp diễn. Có cái gì thật sự
là của mình đâu? Đó chỉ là sự vay-trả, trả-vay mà thôi.
b/Về tinh thần, các ý kiến cho
là mình nghĩ ra thật tình có phải của chính mình không, hay là chỉ do vay mượn
từ nhiều người rồi mình thêm thắt vào. Điều này thấy rất rõ trong các bài giảng,
các luận văn.Tuy nhiên, tôi không phủ nhận những nghiên cứu khoa học kỹ thuật
có tính tiên phong, những sáng chế làm thay đổi cuộc sống.
2/Xét về thời
gian:
a/Về thân xác, khi gặp mặt người
quen hàng ngày, ta thấy không có sự khác biệt. Nhưng nếu gặp lại người thân sau
trên chục năm xa cách thì đó lại là chuyện khác. Ta chỉ cần giở quyển “album”
gia đình ra xem lại chính mình lúc mới vài tháng tuổi, rồi lúc 20 tuổi, 40 tuổi,
60 tuổi thì ta thấy khác nhau rất nhiều, phải không? Vẫn là mình đấy nhưng sao
khác nhau quá, về kích thước, về trọng lượng, về hình dạng…mặc dù còn những nét
hao hao.
Vậy trong 4 hình
đây, KHOÁNG là ai?
Nếu bảo là tất cả
đều là KHOÁNG thì vô lý vì KHOÁNG chỉ có một người mà thôi. Còn nếu bảo chẳng
có ai trong 4 hình này là KHOÁNG thì lại càng sai vì rõ ràng đây là hình chụp một
người qua nhiều thời kỳ khác nhau.
Xét về mức vi
mô, các tế bào trong cơ thể chúng ta thay đổi từng giờ, từng phút, từng giây tuỳ
theo loại. Trong một giây đồng hồ, biết bao tế bào chết đi thì lại có biết bao
tế bào được sinh ra. Thân xác của chúng ta thay đổi liên tục. Chỉ sau một tháng
là thân xác của chúng ta không còn là thân xác cũ nữa nhưng chúng ta đâu hề biết,
chúng ta cứ tưởng nó vẫn vậy. Vật chất không ngừng thay đổi !
b/Về tinh thần, khi bắt đầu tập ngồi
thiền, chúng ta thấy có biết bao suy nghĩ lướt qua trong đầu chúng ta. Thật vậy,
có biết bao nhiêu “niệm” (ý nghĩ) hiện lên rồi biến mất trong một giây đồng hồ.
Đức Phật còn dùng từ “sát na” để chỉ một đơn vị thời gian rất nhỏ. Các niệm của
chúng ta thay đổi từng sát na. Có những ý nghĩ mà ta quyết như “đinh đóng cột”
nhưng sau khi tự mình xét lại hoặc bị người khác thuyết phục, ta quay ngoắt lại
180 độ.Vậy thử hỏi cái Ta nó ở đâu?
Có lúc, tôi ví cái Ta như một dòng sông.
Đứng ở một điểm nhìn, ta thấy dòng sông vẫn vậy nhưng nếu quán sát sâu xa thì
ta thấy ở điểm đó, không còn là cùng các giọt nước ở trong giây trước so với
giây sau.
Cái ta cũng còn
có thể được ví như một vòng lửa tạo ra từ cách xoay tròn 360 độ một sợi dây mà ở
đầu tận cùng có buộc một cục sỏi được bao bởi một bùi nhùi có tẩm dầu đang
cháy. Khi quay thật nhanh, ta có cảm tưởng như có một vòng lửa thực nhưng sự thật
không phải vậy. Vì thế, cái ta cũng chỉ
như vòng lửa, chỉ là ảo ảnh mà thôi.
Cuối cùng, ta có
thể ví cái Ta như một cuộn phim gồm hàng vạn, hàng triệu hình chụp nhưng khi được quay mau thì ta thấy sống động
như thật vậy.
3/Xét về chủ thể:
Nếu nói cái Ta có thực thì ta phải làm
chủ nó, ta phải điều khiển nó theo ý muốn của ta. Nhưng thật sự có phải vậy
không?
Nếu ta là chủ của thân xác ta thì ta có
thể bảo trái tim ngưng đập một lát không, các quai ruột không co bóp nữa, dòng
máu xoay theo hướng khác hoặc tạm ngưng chảy được không?
Nếu ta là chủ của thân xác ta thì
-
ta
muốn cơ thể mãi mãi trẻ trung nhưng sao nó lại cứ già đi?
-
ta
muốn cơ thể luôn khoẻ mạnh nhưng sao nó lại cứ bệnh hoạn?
-
ta
muốn sống mãi mãi nhưng sao nó lại chết?
Vậy
thì cái Ta chính là cái ý thức ( chứ không phải là một thực thể vật chất) về
thân và tâm qua tất cả các hành động của thân, khẩu, ý. Chính những hành động
này làm con người sống động và được các người chung quanh biết đến và cũng
chính những hành động của thân, khẩu, ý tạo thành nghiệp thức chẳng những ảnh
hưởng ngay trong kiếp hiện tại mà còn có hậu quả đến việc tái sinh trong tương
lai theo định luật bất biến của Sinh tử-Luân hồi.Tóm lại, cái Ta:
*chỉ là tập hợp của ngũ uẩn, gồm
những chất nạp vào và thải ra giữa bên ngoài với bên trong cơ thể, không hề có
một thực thể thuần nhất.
* thân thể cũng như tinh thần của ta thay
đổi liên tục theo thời gian.
* không hề có một chủ thể.
Vậy cái mà chúng
ta gọi là “Tôi” chỉ là cái Ta giả,nó chỉ là tạm có do duyên hợp chứ chúng ta
không thể dùng ngôn từ để định nghĩa một cách rõ ràng cái Tôi này.
V/ Ý NGHĨA CỦA LÝ VÔ NGÃ
Vô ngã là một trong tứ pháp ấn của Phật giáo Đại thừa ( pháp ấn là dấu chỉ điểm lời Đức Phật dạy): Vô ngã- Vô
thường -Khổ-Không.
Đây là một trong các
giáo lý căn bản của Đạo Phật và độc nhất vô nhị vì không có tôn giáo nào trên
thế giới này lại phủ nhận cái Ta như Đạo Phật cả. Đức Phật muốn phá bỏ cái chấp
Ngã của hầu hết chúng sinh vì những lý do sau đây:
-Mặc dù Chấp ngã nghĩa là tin
là “cái ta là thật” có một số ưu điểm như nhờ có cái Ngã mà con người mới phấn
đấu, xã hội mới tiến bộ. Chính sự cạnh tranh mới thúc đẩy khoa học kỹ thuật
luôn đổi mới, kinh tế phát triển, mới đem lại sự tiện nghi vật chất cho con người,
mới đem lại sự giàu có cho các quốc gia. Điều này chúng ta không phủ nhận.
-Nhưng cũng chính cái Ngã này đã đem lại bao nhiêu đau khổ, phiền toái
cho mỗi chúng ta, cho cả nhân loại. Tại sao vậy?
* Về cá nhân, nếu ta chấp
vào cái Ta nghĩa là tự xem cái Tôi to lớn (vì tự đồng hoá mình với danh xưng, chức vụ, địa vị
trong xã hội …) thì nếu ai động chạm tự ái của ta như nói xấu, mắng nhiếc…thì
ta sẽ nổi sân lên.
Chính vì quan niệm rằng ta có
một cái tôi thật sự khác biệt với mọi người nên ta muốn (cả ta và chính người
thân của ta) hơn người khác về mọi mặt như học giỏi hơn, địa vị cao hơn, giàu
có hơn…Chỉ vì lòng tham mà ta bất chấp mọi thủ đoạn để đạt được những điều đó.
*Về tập thể, vì chấp cái
này là ta, cái này là của ta, cái này là
tự ngã của ta nên có sự kình chống giữa phe này với phe kia, tôn giáo này với
tôn giáo kia (thậm chí có tôn giáo mà các tín đồ cùng thờ một Thượng Đế nhưng
vì chia 2 phái khác nhau lại giết hại lẫn nhau.Tôi nghĩ Thượng Đế trên trời
cũng phải khóc vì sự ngu muội của các tín đồ của mình),tranh chấp giữa quốc gia này với quốc gia kia. Cùng một lúc
trên trái đất có sự thừa mứa thực phẩm ở nơi này nhưng lại có sự chết đói ở nơi
khác cũng như chiến tranh xẩy ra không dứt, hết ở vùng này thì lại đến vùng
khác.
Chúng ta cần nhớ rằng
khi Đức Phật giảng về lý Vô ngã, không phải là Đức Phật nói “Không có ta” có
nghĩa là “không còn gì cả”.Thật ra, con người ta vẫn sờ sờ đây chứ đâu có mất
đi.
Đức Phật muốn phá sự chấp thủ vào cái “chính mình” (cái Ta giả) của
con người để chúng ta tránh được đau khổ vì Tham và Sân. Phá tan sự chấp thủ
vào 5 uẩn chứ không phải là phá tan 5 uẩn, xin chớ vội hiểu lầm. Giáo lý Vô Ngã
không khuyên con người diệt chính mình bằng cách tự hành xác hay tự tử mà chỉ
khuyên con người nên có một cái nhìn đúng đắn (Chánh kiến) về chính mình.
Đề xướng Vô ngã không phải để hư vô hoá con người, xoá bỏ sự có mặt của
con người trong cuộc đời, trái lại kết hợp chủ thể với tha nhân, xoá bỏ biên giới
cách biệt giữa người với người, trải rộng lòng từ bi đến tất cả chúng sinh. Thế
nên, ai dựa vào giáo lý vô ngã để chối bỏ cuộc đời thì người đó mắc sai lầm
nghiêm trọng vì Đạo không lìa Đời và người đó chưa thấy rõ được diệu dụng của Đạo
Phật.
Qua “Lý vô ngã” Đức Phật
muốn khuyên chúng ta đừng bám víu vào
cái ta giả mà hãy hướng đến cái ta thật để được sống trong hạnh phúc thường
còn.
Vậy có cái ta thật không? Theo Đạo Phật,
ai cũng có cái ta thật qua lời tuyên bố bất hủ của Đức Phật: “Ta là Phật đã
thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”. Đức Phật đã cho mỗi chúng ta biết nguồn gốc
đích thực của mình qua câu chuyện ngụ ngôn“Dê và Sư tử”sau đây:
“Có một sư tử
cái mang bầu sắp sanh nhưng đói quá nên mon men về làng. Khi đến bờ suối, sư tử
mẹ chuyển dạ và sanh ra một sư tử con. Nhưng vì kiệt sức và băng huyết nên sư tử
mẹ đã chết ngay bên bờ suối. Một chú bé chăn dê đến nơi phát hiện sự việc bèn
tri hô lên. Dân làng đến đem sư tử mẹ đi
và cho chú nuôi sư tử con. Sư tử con lớn lên trong bày dê và cứ tưởng mình là
dê. Một hôm sư tử chúa đi tìm mồi, đến bên bờ suối uống nước. Chú chăn dê và
bày dê sợ quá trốn mất trong khi sư tử con ngơ ngác, kêu:“be,be”. Sư tử đực vừa
ngạc nhiên vừa bực mình bèn đến gần sư tử con và nói : “Mày là sư tử chứ không
phải là dê !” Sư tử con luôn miệng kêu:“be,be”. Sư tử chúa giận quá ngoạm vào
gáy sư tử con rồi lôi sềnh sệch đến bên bờ suối, dí mặt nó sát dòng nước và
nói: “Hãy nhìn kỹ lại xem mày là ai?” Sư tử con soi mặt mình và gầm lên một tiếng:
Chúa sơn lâm đã hiện hình!”
Câu chuyện trên đây muốn nói là mỗi chúng
ta thuộc dòng dõi Phật nhưng chúng ta cứ
tưởng mình là chúng sinh. Chúng ta không hề biết hoặc không dám tin điều này giống
như sư tử con cứ tưởng mình là dê cho đến ngày được sư tử chúa cho biết điều đó
cũng như Đức Phật chỉ cho chúng ta biết chân giá trị của mình. Đạo Phật còn ví Phật tánh (còn gọi là Chân Tâm, Bản thể Chân Như)
như biển cả và mỗi chúng sinh là một lọn sóng. Sóng to hay nhỏ là vì gió thổi mạnh
hay yếu cũng như các chúng sinh khác biệt nhau là vì gió “nghiệp”.Vậy khi gió hết
thổi thì sóng lại là nước cũng như khi hết nghiệp Tham,sân,si thì chúng sinh lại
là Phật.Và khi thấy lại Phật tánh, trở lại với cái ta thật thì chúng ta sẽ sống
trong niềm an lạc vĩnh viễn.
Đa số chúng ta chấp vào Ngã nhưng có một
số ít lại chấp vào Vô Ngã. Họ nghĩ rằng Phật nói vạn pháp do duyên hợp nên
không có gì là thật cả, chết là hết mà thì dại gì mình không hưởng thụ bằng mọi
cách, kể cả việc giết hại người khác. Đời chỉ như giấc chiêm bao, không có linh
hồn, không có nghiệp báo, có gì mà phải sợ. Nhưng họ phải hiểu rằng nếu có nhân
“giả” thì cũng có quả “giả” và trong mộng họ vẫn phải trả những quả báo này, họ
vẫn phải nếm mùi đau khổ trong cảnh mộng, không chạy đi đâu được cả.
Khi thuyết về lý
Vô Ngã, Đức Phật không muốn chúng ta chấp vào Không vì như vậy còn tệ hơn chấp
vào Có, mà ngài chỉ muốn chúng ta thấy đúng bản chất của Ngã để đừng bị dính mắc.
Khi thấy được bản chất của sự vật là duyên khởi thì ta thấy nó không có tánh chân
thật, là có hay là không. Do đó, chúng ta không chấp vào có Ngã và cũng không
chấp vào Vô Ngã, sự không chấp này được gọi là Trung Đạo, còn gọi là “Đệ nhất
nghĩa Không”.
Trung Đạo nghĩa
là “không Có cũng không Không”.Trung Đạo không có nghĩa là tổng hợp giữa cái Có
và cái Không, mà là sự siêu việt khỏi thế giới khái niệm. Trung Đạo không có
nghĩa là trung gian giữa sự Có-Không, Thường-Đoạn, Sanh-Diệt, Khổ-Vui mà có
nghĩa là vượt lên khỏi các cực đoan ấy, ra ngoài vòng tương đối sai biệt để hiển
lộ thể Chân Không Diệu hữu, dứt bặt sự suy nghĩ và lời nói.Thực tại vượt thoát
bốn ý niệm:Có, Không,Thường, Đoạn. Đây là lý Bất nhị trong kinh Duy Ma Cật. Ý
nghĩa siêu việt trong Trung Đạo là thái
độ vô chấp, vô trụ, tức là không bị lệ thuộc vào một định kiến nào, không bị
đóng khung trong một phạm trù tư tưởng nào.Trung Đạo là làm mà không bị dính mắc
vào Có và Không: Cần dùng Ngã để phấn đấu, để cạnh tranh cho khoa học được tiến
bộ hơn, cho đời sống được ấm no hơn nhưng không nên bị kẹt vào cái Ngã đó để chỉ
nghĩ đến bản thân mình mà nên ứng dụng Vô Ngã để xoá bỏ ranh giới giữa ta và
người, để thêm bạn bớt thù, để đem lại hạnh phúc cho mọi người trên thế gian
này.
VI/ LỢI ÍCH CỦA VÔ NGÃ
Giáo lý vô ngã là nền tảng, là căn
bản của Đạo Phật nên dù theo Phật giáo Nguyên thủy hay Đại thừa,người ta cũng
cần phải học và tu tập vô ngã.
Chấp ngã nhiều chừng nào thì khổ đau
nhiều chừng đó. Ngược lại, tu tập vô ngã nhiều chừng nào thì bớt khổ
nhiều chừng ấy. Do chấp ngã nên
sinh ra đủ thứ phiền não liên quan đến ngã sở và ngã kiến :
-Ai đụng vào ngã sở như nhà cửa, vợ
con, tài sản, quyền lợi của Ta thì Ta nổi sân lên hoặc lo sợ mất. Người tu tập vô ngã không còn
chấp tài sản là của Ta thì khi bị mất mát sẽ không đau khổ bằng người chấp ngã.
-Do chấp ngã kiến, tức là cho ý kiến
của Ta lúc nào cũng phải, cũng đúng, nên sinh ra cãi nhau, tranh chấp phải
trái, hơn thua, lời qua tiếng lại, tệ nữa là tới đánh nhau, giết nhau.
Người tu vô ngã trở nên khiêm cung,
không ngã mạn, khoe khoang, nên được mọi người thương mến. Người tu vô
ngã mới đầu chưa thuần thục còn bị đau khổ trước một lời nói ác độc. Khi
tu khá hơn thì ngã chấp tiêu mòn, nếu bị chửi chỉ còn thấy khổ sơ sơ.
Cuối cùng khi ngã chấp không còn thì mọi đau khổ đều tan biến. Vì thế Đạo Phật mới nói Vô ngã chính là Niết bàn.
VII/ KẾT LUẬN
Nguyên nhân
của mọi khổ đau, phiền não đều do tâm bất giác vô minh tạo ra cái Ta và năm uẩn
rồi mắc kẹt vào đó. Tâm cho thân là Ta và những cảm thọ, tưởng nhớ, suy
nghĩ, phân biệt là Ta. Nhưng Ta chỉ là một ảo tưởng của tâm, theo Chân Lý
thì không có Ta (vô ngã). Bởi thế muốn giải thoát cần phải tu học vô ngã
và Chân tâm.
Khi nào tâm tỉnh giác trở về bổn
tánh, chứng nhập chân như, thoát khỏi sự chấp ngã thì lúc đó ngã hay vô ngã
không còn là vấn đề, vì không còn đối đãi nhị nguyên. Nhưng ngày nào tâm
chưa giải thoát, ngày đó ta vẫn cần phải tu học theo thứ lớp, tức là phải diệt
trừ sự chấp ngã. Đạo Phật quý ở chỗ thực hành chứ không bàn luận suông về
những lý lẽ cao siêu (như Tánh không, Bát nhã, Bất nhị, Pháp thân) trong khi
bản ngã, tham, sân, kiêu mạn không trừ.
Tôi muốn chia sẻ lời giải đáp “Ta là ai” để quý vị đỡ mất thời gian tìm kiếm. Cái ta tưởng là thật
thì nó là giả, còn có một cái thật khác, đó chính là Chân Tâm, là Phật Tánh. Tuy
nhiên hiểu biết này mới chỉ là trên tri thức thôi, chúng ta cần phải tinh tấn tu
tập để thực chứng thấy lại bản tánh chân thật của mình. Khi đó, mặc dù về kích
thước và trọng lượng, chúng ta không là gì so với vũ trụ nhưng chúng ta chính là vũ trụ, là chân lý, không điều
gì là không biết (Nhất thiết chủng trí).
Và
cuối cùng, xin cầu mong mọi chúng sinh đều được giải thoát khỏi vòng sinh tử-luân
hồi và đạt được hạnh phúc thường còn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Kinh Vô ngã tướng (Anattalakkhana
sutta) trong “Căn bản học Kinh Phật” của cư sĩ Thiện Nhựt- Huỳnh Hữu Hồng.
2.Thân Tâm và Ta, bài thuyết trình tại Tổ
đình Từ Quang, Montreal,tháng7/2008 của cư sĩ Thiện Nhựt- Huỳnh Hữu Hồng.
3.Danh từ Phật học thực dụng, Tâm Tuệ Hỷ.
4.Trung Đạo về Bản Ngã, Thường Hỷ Lê
Niên.
5.Vô ngã là Niết Bàn, HT.Thích Thiên
Siêu.
6.Vô ngã, Thiền sư Sayadaw U Silananda, Tỳ
Kheo Pháp Thông dịch.
7.Tâm và Ta , ĐĐ Thích trí Siêu
8.Đức Phật và Phật pháp, Đại Đức Narada,
Cư sĩ Phạm Kim Khánh dịch.
9.Phật học tinh hoa, Thu Giang Nguyễn Duy
Cần.
5 nhận xét:
Cám ơn thầy đã chia sẻ.
Theo thầy thì muốn tu tập Vô ngã thì phải bắt đầu từ đâu ạ?
muốn tu tập Vô ngã thì phải bắt đầu tù việc tự trang bị kiến thức và trải nghiệm sống mỗi ngày! Sinh viên y khoa.
Ảnh đeo, lời hay.
Cám ơn bạn đả chia sẻ.
Búp sen xin tặng người .
Liên
cản ơn bạn Francine Nguyen
Tôi không biết phải giới thiệu như thế nào. Những quyển sách mà các bạn sẽ đọc sau đây là những tác phẩm vô cùng quý cho những người thành tâm tìm đạo. Không phải bằng sự tin tưởng, cầu nguyện, mà bằng sự sáng suốt. Kinh Bát Đại Nhân Giác có câu “ Duy Tuệ Thị Nghiệp ”. Như người đi đêm chỉ cần một ánh đèn là đũ. Nếu những lời hay, sách quý đúng vào mục đích nhất là mục đích cốt tủy của người tầm đạo thì thật là như một ngọn đèn sáng. Trân trọng giới thiệu với các bạn tác phẩm “ Ta là Cái Đó ” và nhiều quyển sách quý giá khác của dịch giả Vũ Toàn. Vô cùng cảm ơn công sức dịch thuật của dịch giả và sự chia sẻ vô vụ lợi của Ông. Tác phẩm “ Ta là Cái Đó ” là “ Đối thoại sấm sét, trực chỉ giữa một người ở ngoài Tâm và những người còn quanh quẩn trong Tâm ”. Xin mời các bạn. Nếu các bạn muốn, xin vào trang web chuabenhdongian.com và để lại email tôi sẽ gửi sách đến các bạn
Đăng nhận xét