Thứ Bảy, 27 tháng 10, 2012

CHÙA CÔ HỒN ( BỬU HƯNG TỰ )

BS Nguyễn văn Phúc


CHÙA CÔ HỒN (241 đường Phan Đình Phùng, phường Quang Vinh, thành phố Biên Hoà)
Năm 1918, một lều am tranh được dân chúng trong xóm dựng lên tại gốc cây đa lớn nơi đầu Dốc sỏi để thờ phật và cầu siêu cho các oan hồn uổng tử, phảng phất trên vùng đất thiêng này.
Năm 1920, do nhu cầu cần có ngôi Tam Bảo hầu mong tiến mõ lời kinh sẽ xua đi chướng khí của vùng đất còn nhiều u tịch, siêu độ những vong hồn chưa được siêu thoát, nguyện cầu cuộc sống an bình, người dân trong vùng đã thuyên góp tiền của, công sức dựng lên chùa Bửu Hưng. Từ ngày xây dựng đến nay, Bửu Hưng Tự trải qua nhiều đời sư trụ trì. Vị sư đầu tiên không rõ pháp danh, được thỉnh về chùa không bao lâu thì viên tịch. Bửu Hưng Tự vắng sư một thời gian dài.
Sở hỏa xa đặt đường rầy đề chở đá núi Lò gạch (Long-ẩn) nên am được dời qua hướng Tây, cất lại bằng ngói thành một ngôi chùa do một tu sĩ trong thôn đến trụ trì đặt thiền-hiệu là “Bửu Hưng Tự” được nhóm anh chị em “Bồi bếp” sở “Máy bay” đứng ra bảo trợ và gọi là chùa “CÔ HỒN”
Năm 1955, không quân Pháp rút đi, hội “Bồi bếp” giải tán, chùa được giao lại cho Hương chức ấp Bình Hòa quản trị và do một sư bà trụ trì.
Năm 1958, cư sĩ Thích Thiện Hương tự Thiện Tánh được thỉnh về lo việc hương đăng.
Năm 1963, chùa được chi hội Phật-giáo Thống Nhất tạm mượn làm nơi phụng tự trong khi trụ sở chính thức chưa xây cất xong.
 Từ năm 1965 đến nay, chùa trải qua các đời kế nhiệm trù trị như: thầy Thích Viên Đức ( 1965), Thượng toạ Thích Thiện Nguyệt ( 1966), thầy Thích Quảng Châu ( 1967 ) và từ 1970 đến nay chùa do sư cô Diệu Minh làm trù trì.
Con đường Dốc-sỏi (hương lộ II) giữa pháp trường cũ và cây đa to, vào khoảng những năm 1958 – 1963, được vang danh một thời trong giới “Mã thượng giang hồ”. Đến năm 1964, trục giao thông này được xây dựng mới. Với những địa danh xóm Lò Than, Cổng 2  không quân…
Bửu Hưng Tự quay về hướng tây nam, toạ lạc trên ngọn đồi thấp, khuôn viên gần 3000m2, được bao bọc bởi hàng rào xây bằng gạch, đã trải qua nhiều lần sửa chữa, trùng tu vào năm 1960, 1963, khi Viện Hoá đạo mượn làm văn phòng. Ngôi chùa được trùng tri qui mô vào năm 1967, thượng toạ Thích Thiện Nguyệt trù trì tại chùa đã cho sửa chữa toàn bộ phần chánh điện : thay mái ngói, lót lại nền gạch, gia cố tường, móng, tu bổ bể thờ, đặt tượng Phật Di Lặc, Quan Âm, trước mặt tiền chùa và xây dựng thêm một số công trình phụ khác như lập trường Bồ Đề kỳ nhi, cô nhi viện, mở phòng chữa bệnh đông y từ thiện.
KIẾN TRÚC
Chùa Bửu Hưng kiến trúc hình chữ nhị (=) gồm: chánh điện, nhà giảng nối tiếp nhau. Tả, hữu của nhà giảng  là lớp học, nhà bếp, liêu phòng Tăng nhi và Sư trù trì. Trước chùa có cây bồ đề cao, tán rộng phủ bóng mát tô điểm cảnh chùa thêm  vẻ  cổ kính, tarng nghiêm. Giữa sân, đối diện cổng chính là tượng phật Di Lặc, bên trái tượng Quan Thế Âm ngự toà sen. Phía sau tượng tượng Quan Thế Âm là miếu Bà, bên phải là miếu Cô Hồn thờ vong linh các nghĩa sĩ trại Lâm Trung bị giặc Pháp xử bắn năm 1916.
 Chánh điện có diện tích 53,9m2 (7,7 x 7 m) xây theo kiểu tứ trụ truyền thống. Cột bê tông, bốn mái lợp ngói móc, giữa nóc gắn chữ  được  thiết  kế dạng vòng tròn tượng trưng cho vòng luân hồi của giáo lý nhà Phật. Trên cửa chánh điện có tấm hoành  phi sơn son khắc tên chùa bằng chữ Hán. Các tượng Phật an vị  trên bệ thờ bằng xi măng gồm tượng Phật Di Lặc, Địa Tạng Bồ Tát, Quan Thế Âm, Phật Thích Ca và Phật Đản Sanh. Tả hữu đặt tượng Hộ Pháp, tượng Ông Tiêu, giá treo chuông và trống.
Sau chánh điện là nhà thờ Tổ thờ Tổ sư Đạt Ma và hoà thượng Thích Quảng Đức cùng với  vong linh những người đã khuất. Hậu cung ( nhà giảng) thờ Phất Chuẩn Đề  và linh vị  các sư thầy đã viên tịch.
Bửu Hưng Tự là di tích lịch sử được UBND tỉnh xếp hạng vào năm 1978 nơi đây gắn liền với một sự kiện cách mạng quan  trọng. Tháng 6/1945 dưới sự chủ trì của ông Hoàng Minh Châu, Hội nghị cán bộ Đảng Biên Hoà triệu tập ở gian phía sau chùa. Hội nghị quyết định những vấn đề quan trọng về chủ trương, chuẩn bị cho nhân dân Biên Hoà nổi dậy giành chính quyền, thành lập Uỷ Ban Khởi Nghĩa. Chùa là cơ sở cách mạng, tiếp tế lượng thực, thuốc men cho kháng chiến.
Sư cô Diệu Minh, thế danh Lê Thị Cúc, sinh năm 1941 tại tỉnh Hải Dương. Trước khi xuất gia Sư cô tham gia học châm cứu, cắt giác…và dần ngộ ra rằng: dòng đời là bể khổ trầm luân, chỉ có con đường xuất gia làm đệ tử  Phật mới giải thoát được bản ngã của con người trần tục, cứu khổ cứu nạn chúng sanh thoát bể khổ đường mê. Hạt giống bồ đề cứ lớn dần trong tâm tưởng, năm 1964 sư cô xuất gia, tu học và thọ pháp với Hoà thượng Thích Thiện Nguyệt chùa Tam Bảo ( Sài Gòn ). Thọ tỳ kheo ở Long Thiền Tự do hoà thượng Thích Huệ Thành giới đàn năm 1967.
Từ khi xuất gia đến nay, Sư cô Diệu Minh hiến dâng cả cuộc đời mình nơi cửa Thiền Môn. Bước chân Sư cô dong đuổi khắp các tỉnh miền Trung, miền Nam làm việc từ thiện, giữ nghiêm giới răn, là tròn bản ngã người chân tu.

Không có nhận xét nào: