BS Nguyễn văn Phúc
CHÙA CÔ HỒN (241 đường Phan Đình Phùng, phường Quang Vinh, thành
phố Biên Hoà)
Năm 1918, một lều am tranh
được dân chúng trong xóm dựng lên tại gốc cây đa lớn nơi đầu Dốc sỏi để thờ
phật và cầu siêu cho các oan hồn uổng tử, phảng phất trên vùng đất thiêng này.
Năm 1920, do nhu cầu cần có
ngôi Tam Bảo hầu mong tiến mõ lời kinh sẽ xua đi chướng khí của vùng đất còn
nhiều u tịch, siêu độ những vong hồn chưa được siêu thoát, nguyện cầu cuộc sống
an bình, người dân trong vùng đã thuyên góp tiền của, công sức dựng lên chùa
Bửu Hưng. Từ ngày xây dựng đến nay, Bửu Hưng Tự trải qua nhiều đời sư trụ trì.
Vị sư đầu tiên không rõ pháp danh, được thỉnh về chùa không bao lâu thì viên
tịch. Bửu Hưng Tự vắng sư một thời gian dài.
Sở hỏa xa đặt đường rầy đề
chở đá núi Lò gạch (Long-ẩn) nên am được dời qua hướng Tây, cất lại bằng ngói
thành một ngôi chùa do một tu sĩ trong thôn đến trụ trì đặt thiền-hiệu là “Bửu
Hưng Tự” được nhóm anh chị em “Bồi bếp” sở “Máy bay” đứng ra bảo trợ và gọi là
chùa “CÔ HỒN”
Năm 1955, không quân Pháp rút
đi, hội “Bồi bếp” giải tán, chùa được giao lại cho Hương chức ấp Bình Hòa quản
trị và do một sư bà trụ trì.
Năm 1958, cư sĩ Thích Thiện
Hương tự Thiện Tánh được thỉnh về lo việc hương đăng.
Năm 1963, chùa được chi hội
Phật-giáo Thống Nhất tạm mượn làm nơi phụng tự trong khi trụ sở chính thức chưa
xây cất xong.
Từ năm 1965 đến nay, chùa trải qua các đời kế
nhiệm trù trị như: thầy Thích Viên Đức ( 1965), Thượng toạ Thích Thiện Nguyệt (
1966), thầy Thích Quảng Châu ( 1967 ) và từ 1970 đến nay chùa do sư cô Diệu
Minh làm trù trì.
Con đường Dốc-sỏi (hương lộ
II) giữa pháp trường cũ và cây đa to, vào khoảng những năm 1958 – 1963, được
vang danh một thời trong giới “Mã thượng giang hồ”. Đến năm 1964, trục giao
thông này được xây dựng mới. Với những địa danh xóm Lò Than, Cổng 2 không quân…
Bửu Hưng Tự quay về hướng tây
nam, toạ lạc trên ngọn đồi thấp, khuôn viên gần 3000m2, được bao bọc bởi hàng
rào xây bằng gạch, đã trải qua nhiều lần sửa chữa, trùng tu vào năm 1960, 1963,
khi Viện Hoá đạo mượn làm văn phòng. Ngôi chùa được trùng tri qui mô vào năm
1967, thượng toạ Thích Thiện Nguyệt trù trì tại chùa đã cho sửa chữa toàn bộ
phần chánh điện : thay mái ngói, lót lại nền gạch, gia cố tường, móng, tu bổ bể
thờ, đặt tượng Phật Di Lặc, Quan Âm, trước mặt tiền chùa và xây dựng thêm một
số công trình phụ khác như lập trường Bồ Đề kỳ nhi, cô nhi viện, mở phòng chữa
bệnh đông y từ thiện.
KIẾN TRÚC
Chùa Bửu Hưng kiến trúc hình
chữ nhị (=) gồm: chánh điện, nhà giảng nối tiếp nhau. Tả, hữu của nhà
giảng là lớp học, nhà bếp, liêu phòng
Tăng nhi và Sư trù trì. Trước chùa có cây bồ đề cao, tán rộng phủ bóng mát tô
điểm cảnh chùa thêm vẻ cổ kính, tarng nghiêm. Giữa sân, đối diện
cổng chính là tượng phật Di Lặc, bên trái tượng Quan Thế Âm ngự toà sen. Phía
sau tượng tượng Quan Thế Âm là miếu Bà, bên phải là miếu Cô Hồn thờ vong linh
các nghĩa sĩ trại Lâm Trung bị giặc Pháp xử bắn năm 1916.
Chánh điện có diện tích 53,9m2 (7,7 x 7 m) xây
theo kiểu tứ trụ truyền thống. Cột bê tông, bốn mái lợp ngói móc, giữa nóc gắn
chữ được
thiết kế dạng vòng tròn tượng
trưng cho vòng luân hồi của giáo lý nhà Phật. Trên cửa chánh điện có tấm hoành phi sơn son khắc tên chùa bằng chữ Hán. Các
tượng Phật an vị trên bệ thờ bằng xi
măng gồm tượng Phật Di Lặc, Địa Tạng Bồ Tát, Quan Thế Âm, Phật Thích Ca và Phật
Đản Sanh. Tả hữu đặt tượng Hộ Pháp, tượng Ông Tiêu, giá treo chuông và trống.
Sau chánh điện là nhà thờ Tổ
thờ Tổ sư Đạt Ma và hoà thượng Thích Quảng Đức cùng với vong linh những người đã khuất. Hậu cung (
nhà giảng) thờ Phất Chuẩn Đề và linh
vị các sư thầy đã viên tịch.
Bửu Hưng Tự là di tích lịch
sử được UBND tỉnh xếp hạng vào năm 1978 nơi đây gắn liền với một sự kiện cách
mạng quan trọng. Tháng 6/1945 dưới sự
chủ trì của ông Hoàng Minh Châu, Hội nghị cán bộ Đảng Biên Hoà triệu tập ở gian
phía sau chùa. Hội nghị quyết định những vấn đề quan trọng về chủ trương, chuẩn
bị cho nhân dân Biên Hoà nổi dậy giành chính quyền, thành lập Uỷ Ban Khởi
Nghĩa. Chùa là cơ sở cách mạng, tiếp tế lượng thực, thuốc men cho kháng chiến.
Sư cô Diệu Minh, thế danh Lê
Thị Cúc, sinh năm 1941 tại tỉnh Hải Dương. Trước khi xuất gia Sư cô tham gia
học châm cứu, cắt giác…và dần ngộ ra rằng: dòng đời là bể khổ trầm luân, chỉ có
con đường xuất gia làm đệ tử Phật mới
giải thoát được bản ngã của con người trần tục, cứu khổ cứu nạn chúng sanh
thoát bể khổ đường mê. Hạt giống bồ đề cứ lớn dần trong tâm tưởng, năm 1964 sư
cô xuất gia, tu học và thọ pháp với Hoà thượng Thích Thiện Nguyệt chùa Tam Bảo
( Sài Gòn ). Thọ tỳ kheo ở Long Thiền Tự do hoà thượng Thích Huệ Thành giới đàn
năm 1967.
Từ khi xuất gia đến nay, Sư
cô Diệu Minh hiến dâng cả cuộc đời mình nơi cửa Thiền Môn. Bước chân Sư cô dong
đuổi khắp các tỉnh miền Trung, miền Nam làm việc từ thiện, giữ nghiêm
giới răn, là tròn bản ngã người chân tu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét