Ông Tư Mốt chỉ cái dải xanh mù
mù trong mưa, bảo cù lao Mút Cà Tha kìa. Văn ờ, nói thấy xa quá chú ha. Ông
cười, gạt ngang, xa gì, đây tới đó mấy hồi. Rồi chiếc xuồng máy nhỏ mong manh
dập dờn đi trong giông gió. Người thành phố ngồi ngấm cái "mấy hồi"
của ông già, mừng tủi thấy màu xanh cây cỏ cù lao đã thẫm trước mắt (mà sau mới
biết mình mừng hụt).
Mưa dịu lại, hạt nhỏ rức nhưng
gió mạnh lên, thổi xà quần, không biết đâu là chiều hướng. Ông Tư quăng cho
Văn cái can nhựa còn ít xăng, bảo, tới khúc "mứt" nghen, coi chừng
lật xuồng. Mà, có kịp coi gì, Văn thấy mình ngã ập xuống nước, hành lý trôi mất,
lên tới bờ anh chỉ còn trụi trơ bộ đồ đang mặc. Ông Tư kè chiếc xuồng vô sau,
giậm chân giậm cẳng bứt đầu gãi tóc như thể mình vừa lỡ tay làm nên cơn giông
chiều nay. Bởi ông biết rằng, mưa gió kia, sóng nước mênh mông kia và cả màu
chiều đang lịm dần kia sẽ làm cho người bác sĩ trẻ này thất vọng. Bác sĩ thứ
sáu về làm việc ở trạm xá cù lao. Năm người trước đã ra đi, đi vì không chịu
nổi thiếu thốn. Và buồn.
Cù lao Mút Cà Tha nằm gần cuối
sông Dài, trên nó một chút có một nhánh sông khác rẽ về phía mặt trời, rộn rịp
được đoạn đó rồi thôi. Mút Cà Tha nằm hiu hắt, lâu lâu mới thấy bóng dáng một
con tàu lớ ngớ chạy vào rồi lại tẽn tò quay ra vì lầm đường, vì không biết đằng
sau cù lao, sông cụt. Ngó sông vắng vẻ quá trời buồn, nhìn cảnh cù lao còn buồn
hơn. Buồn từ mùi ổi chín phảng phất trong vườn, từ giọng người ới lên một tiếng
rồi bặt, dư âm còn thâm u trên các ngọn cây, tiếng cạo cơm cháy xa vẳng trong
nắng chiều... Từ mé rừng mắm chống lở đất phía bên này, đi hết vườn cây này gặp
được một căn nhà thì lại tiếp đến vườn cây trái khác. Cuối cùng là bãi bồi,
dây khoai lang bò xùm xòa phủ kín đất. Bóng người ẩn hiện dọn cỏ dưới các gốc
cây. Bên đường thấp thoáng nhiều nấm đất con con của những đứa trẻ kiệt sức
vì bị đẹn mà chỉ được rơ miệng bằng cỏ mực, những đứa trẻ bệnh sốt xuất huyết
chỉ chữa bằng cạo gió, uống nước mía lau, rễ tranh, những đứa trẻ mắc thương
hàn bị thủng ruột vì tự do chạy ra vườn ăn ổi chua, ổi chát... Những gò đất ấy
đã cũ mèm rồi, bây giờ người cù lao hiểu biết nhiều, nhưng vẫn còn chuyện rủi
may, còn người bị rắn độc cắn, chết trên đường ra bệnh viện huyện. Hôm ấy,
trưởng ấp Tư Mốt tuyệt vọng nắm chặt hơi thở cuối của ông bạn láng giềng
trong tay, tuyệt vọng thấy nó tan đi, ông về nhà viết lên tường trạm xá
"Cương quyết chỉ chết vì già".
Nhân viên y tế nào mới về ngó
câu khẩu hiệu ấy cũng cười, cũng thương. Nhưng rồi nửa khuya ngồi ăn mì gói,
nghe cú kêu lẫn tiếng radio khọt khẹt (để chút âm thanh đấy cho đỡ quạnh), vạch
đi vạch lại tờ báo cũ mèm, họ sực nhớ phải về quê lấy vợ, lấy chồng, sực nhớ
vợ mình mới sinh, sực nhớ tội nghiệp ba má đã già... Và họ từ giã cù lao. Ông
Tư Mốt ờ ờ ra chiều thông cảm, vẻ mặt cố tỏ ra không buồn nhưng hàm râu xuôi
xị. Họ ngoắc đò đi rồi ông còn đứng mãi trên bến, nghĩ giận đám trẻ cù lao đã
được học hành nhưng chẳng đứa nào chịu quay về.
Nên ông bảo với bốn mươi ba nóc
gia sống trên Mút Cà Tha, "Bất cứ người xứ lạ nào đến làm việc ở đất cù
lao đều quý, mình phải đối xử cho tử tế, thiệt tử tế". Gặp Văn lần đầu
tiên, ông nghĩ ngay, phải giữ thằng nhỏ này ở lại cù lao, thấy cái mặt buồn
buồn, ngó bộ đàng hoàng. Ông nghĩ là mình có cách, không có gì sâu nặng bằng
tình cảm người với người. Thì ông đã rịt chân mấy thầy cô giáo cho đám trẻ cù
lao đấy thôi. Hôm Văn đến, bà con ôm lại cho một đống áo quần, góp gạo đổ vô
thùng, câu cá đem rộng. Rồi mấy con cá ốm nhom, trắng dờ con mắt, lội vật vờ
tới lui chờ hóa kiếp mà Văn vẫn còn ngợp trong mớ lời mời, hết nhà này đến
nhà khác, bữa thì cháo vịt, cháo rắn, bữa khác tôm nướng, lươn um...
Mà, trông Văn vẫn buồn, buồn
chen giữa hai cái cười, nó tranh thủ cả khi Văn đưa ly rượu lên môi và để ly
không xuống (còn lúc uống thì mặt Văn nhăn nhúm lại, vẻ buồn không rõ ràng).
Hỏi làm sao buồn thì Văn cười, ủa, cháu có buồn gì đâu. Hỏi nhớ thành phố à,
Văn cũng cười, không, thành phố có gì mà nhớ. Hỏi nghĩ sao mà tình nguyện về
đất cù lao này, nghe tên Mút Cà Tha bộ không ớn sao, Văn (lại) cười, không,
có nghĩ gì đâu, cháu chọn nơi nào hẻo lánh ít người... Nghe cái giọng như đời
ta là lục bình, trôi đâu cũng được, càng xa càng tốt.
Nhưng trưởng ấp Tư Mốt phải làm
cho anh chàng hiểu đời anh có ý nghĩa với đất này như thế nào, thiếu anh người
cù lao sống không nổi chớ chơi à. Buổi sáng có người chạy lại than nhức đầu,
sổ mũi, buổi chiều thêm chứng chóng mặt, đau mình. Vài ba chị phụ nữ đỏ mặt
thập thò ngoài cửa, trong bụng rủa thầm ông già Tư Mốt, đau bụng kinh cũng bắt
đi trạm xá, mắc cỡ gần chết. Trưởng ấp tà tà dài theo xóm, thấy ai rảnh rỗi
là kêu, đứng đó làm gì, sao hổng lại trạm xá cho bác sĩ người ta khám. Trời đất,
bệnh gì mà khám chú Tư. Ông nói tỉnh bơ, khều khều bộ râu, "Có chớ sao không,
hễ mày nhậu xỉn là ói, để vậy không tốt, lại kiếm thằng Văn đi". Mới đầu
thì Văn không biết, nên thấy có bà cụ chống gậy lại bảo bác sĩ coi bệnh giùm,
Văn hỏi bà bị gì, bà cười, tui suy nghĩ chưa ra. Thuốc hết, huyện chưa kịp gửi,
Văn áy náy, tần ngần đưa mấy thứ B1, B6 cho con bệnh đau bao tử, uống xong,
ông này phởn phơ đứng dậy, tươi rói bảo, trời đất ơi, thuốc chú mày quá chừng
hay. Văn đâm ra lạ. Cho tới bữa đám con nít khiêng một thằng bé ở truồng lại,
nhao nhác nói chim của thằng Út Chót bị còng kẹp rồi, nó sưng chù vù nè chú
bác sĩ ơi. Văn mắc cười quá, hỏi sao tới nông nỗi vầy, thằng Út Chót khọm rọm
lấy tay bụm chỗ đau, phều phào nói trong nước mắt, "Tại bác Tư biểu ai
cũng phải đi khám cho chú bác sĩ vui, chú không bỏ về thành phố. Con đâu có bịnh,
tính bắt còng kẹp chơi...". Văn chỉ kêu được hai tiếng trời ơi.
Và anh hiểu tại sao ông già ấy
lại quan tâm tới mình. Chiều nào ông cũng lại chỗ Văn, rủ rỉ rù rì. Ông biết
giờ đó, bà mụ Năm, nhân viên thứ hai của trạm xá đã về nhà, có thể Văn thấy
cô đơn. Ông kêu đám thanh niên lại chỗ Văn đàn hát tẳng tằng tăng, dẫn Văn đi
câu cá hay soi ếch trong "mà". Văn tham gia nhiệt tình nhưng không
tha thiết như người đi đường thấy vật lạ thì cầm lên, rồi lại bỏ xuống, đi tiếp.
Có lần ông Tư hỏi nhà Văn ở khúc nào, Văn bảo ở chỗ ấy chỗ ấy mà trong bụng
buồn cười, nghĩ nói cho có chứ chắc gì ông biết, nghe cái giọng như thể thành
phố nhỏ bằng cù lao. Không ngờ ông biết thật, nói hồi giải phóng, trung đội
ông đánh vô đường đó. Ban quân quản còn cấp cho ông căn nhà đằng trước có khoảng
sân ngập tràn bông giấy rụng. Văn hỏi, rồi sao bác lại ra sống ở đây. Ông cười,
vì cái đất này cần mình. Nói xong câu này, ông lén dò xét coi thằng nhỏ có bắt
được cái ý nghĩa ngầm mà ông gửi gắm không, chỉ thấy Văn ngó lên trời, ngó xa
xôi, hỏi nhìn gì, Văn ù ờ, bảo nhìn chim bay, không biết tụi nó bay tới đâu,
về tận đâu. Trưởng ấp Tư Mốt thấy bất an, về nhà biểu con gái sớt nửa nồi bí
hầm dừa bưng qua trạm xá. Con Nga dạ rồi tong tả đi.
Nó thường được ông Tư sai bưng
thức ăn đến trạm xá cho Văn. Nhiều nhất, thường nhất là món khoai luộc nóng hổi,
thơm bừng. Bưng rổ khoai từ nhà đến chỗ Văn, khói mềm cả ống tay áo Nga. Trời
trở chướng, gió ráo hanh nhưng nước lên, sân trước trạm xá ngập lênh láng,
con Nga xắn quần quá gối lội qua, thấy Văn, nó thưa thẽ thọt "Ba em gửi
anh ít khoai" rồi về. Lần sau, nó xắn quần thấp một chút, bảo ăn khoai
đi anh. Sau nữa nó cứ để ống quần bết nước, lọng cọng đứng ngoài cửa, hai gò
má rựng lên, gọi "Ăn khoai nè". Lúc đấy thì nói ít, thẹn thò nhưng ở
lại lâu, dọn dẹp lăng xăng, quét trên quét dưới, bắc nồi cơm lên bếp, làm cá
nấu canh chua trái giác, sung sướng thấy mình bận rộn giống hệt mấy nhỏ bạn mới
lấy chồng (tụi con gái thường hay điên vậy, tới khi xà quần chồng con thật, lại
than số mình cực như trâu). Rồi sực nhớ bếp ở nhà lạnh tanh, nó chạy về. Ông
Tư ngồi trước cửa, giấu sự thắc thỏm (và một chút lưỡng lự, mình tạo điều kiện
cho hai đứa gần gũi vầy có sao không ta). Cố tươi tỉnh, ông hỏi ngay,
"Con Nga lo cho anh bay xong chưa ? Mắc gì mà mày cười suốt từ ngoài đường
vào đây ?". Dạ, con Nga chối bay, con đâu có cười, tại ba má sanh cái miệng
con vậy mà. Nói rồi nó chạy vô bếp, bâng khuâng cười thêm một hồi nữa...
Chủ nhật, Văn mượn xe đạp chở
con Nga đi chơi lòng vòng cù lao. Nga ngồi đằng sau, khép nép, sượng trân, sợ
ai đó thấy hai đứa vầy, một hồi lại sợ không ai thấy, nó tiếc nuối chép miệng:
- Bữa nay người ta đi đâu hết
trơn rồi cà, vắng dễ sợ.
Quẹo qua quẹo lại, nói đất nói
trời (chỉ thiếu nói lời thương yêu), cuối cùng hai đứa ra bãi đào khoai. Văn
hỏi má Nga đâu, nó cười, chết rồi, chết hồi sanh em, chết trên xuồng. Văn về
ngó cái khẩu hiệu ông Tư vẽ trên tường. Thấy nó đỏ như một lời thề.
Bữa nọ Nga đem mấy cần xé ổi ra
chợ huyện cân cho vựa thì gặp đám bạn Văn xốc xếch đứng trên bến. Nga cho quá
giang về Mút Cà Tha (mà không hiểu sao trong bụng muốn nhận chìm xuồng cho tụi
này bỏ ý định ra cù lao cho rồi). Ngồi dưới xuồng, ba thằng trai cứ khen Nga
đẹp, nhìn là muốn ở lại đất cù lao này hoài, hai đứa gái bĩu môi, tủm tỉm cười,
nói bữa nay dê thả tùm lum ngoài đường. Nga không để ý, những lời nói ngọt
ngào càng không để ý. Xuồng cập bến, Nga xăm xăm đi trước dẫn đường, tong tả
xộc vào phòng sau của trạm xá, cằn nhằn cử nhử, sao anh Văn bày tùm lum như vầy
(cho tụi kia biết, ta đây đã thân thuộc với anh ấy đến mức nào).
Văn từ nhà tắm vào, nước trên
tóc còn rỏ tong tong. Năm người họ sà vô ôm, nhảy tưng tưng, nói tui nhớ ông
em nhớ anh quá chừng. Văn ngợp thở vì cái mùi thành thị quen thuộc của nước
hoa, của son, của phấn, của khói thuốc lá, của những hơi thở gấp, của sự chen
chúc, xô đẩy nhau… Và những kỷ niệm ùa về, nhớ quán cà phê chỗ mình ngồi
không, bây giờ đổi tên khác rồi. Văn sôi nổi hỏi, vậy con nhỏ phục vụ bốc lửa
còn không. Còn, mà chi, tụi con gái ở Phố Xưa còn dữ dội hơn, nhớ bar đó
không ? Nhớ không, nhớ không… Đã vầy đã khác. Mà Hương của mày có con rồi,
mày đã quên chưa. Không khí chùng xuống. Một đứa bạn cười, kín đáo liếc ra đằng
sau, giọng xủng xoảng như ly chén bể, "Sao anh không chịu để em bù vô nhỏ
Hương, ra đây trốn tình chi cho cực, em nhớ anh thấy mồ". Đuôi mắt quét
tận chỗ Nga, thấy con gái cù lao đứng thừ lừ. Nga nói thôi em về, luộc khoai
đem qua anh Văn đãi bạn.
Nga qua khoảng sân đầy nước thì
có ông con trai chạy theo, lăng xăng nói trời ơi mát khủng khiếp, yên tĩnh
tuyệt vời quá, cảnh thiệt là thơ mộng rồi hỏi, ủa, sao không thấy em gái nói
gì. Nói gì bây giờ, Nga đi lẹ lẹ đằng trước, nỗi sợ cuộn lên, mong manh, Văn
dễ tin lắm, hôm trước con chồn chạy ngang Nga nói con mèo Văn cũng tin, Nga bảo
cây cỏ trên cù lao này đều do chim ỉa mà mọc lên Văn tưởng thiệt, bây giờ người
ta nói yêu này yêu nọ, không biết Văn của mình có tin không. Nó cố kìm để khỏi
kêu lên, trời ơi, sao người ta nói chuyện yêu thương dễ ợt, giòn rụm vậy cà.
Bận quay lại trạm xá, Nga còn
đi nhanh hơn, đầu nó có một mớ tro lá dừa đậu hồi thổi lửa. Anh chàng nọ rớt
lại dọc đường. Bước vô cửa thấy ba bốn người nằm ngủ nghiêng ngủ ngửa, Nga
nói ngay, "Ủa, anh kia chưa về hả, cha, ảnh ở đâu ta ? Em hổng có đi
chung" (cho anh đừng suy diễn lung tung, rồi hiểu lầm lòng dạ em). Ngó bộ
Văn không để ý, Nga nhẹ lòng, thở ra cái phù, hỏi, anh đang làm gì đó, Văn cười,
coi nắng cù lao. Trời, nắng có gì mà coi, anh ?
Hôm ấy Văn không trả lời, hôm
sau không kịp trả lời vì Văn đưa bạn ra về rồi không trở lại. Lặng lẽ, như trốn
chạy. Trưởng ấp Tư Mốt đứng ở trạm xá, thấy sau trước trống không, trong lòng
nghe đau tiếc như vừa thua một ván bài lớn. Văn không từ giã ông một lời, để
nói cháu về vì má cháu đang đau, hoặc cháu ra ngoài trung tâm y tế huyện một
tí, rồi lên xe đi luôn cũng được, dù nhìn vào đôi mắt đang cụp xuống kia, biết
người ta nói dối, dù trong tâm ông đã vẫy tay để chào xa mãi.
Trong một thoáng, ông thấy mình
chùng chình, vớ được khúc cây bình bát, ông chống vào đất. Bên ngoài cái đất
Mút Cà Tha dường như đã có sự thay đổi lớn. Thí dụ như con cá, lá rau, hạt gạo
mến thương của người cù lao không ràng buộc được một con người (như đã từng rịt
chân ông lại), thì cái bóng nhỏ nhoi của đứa con gái đang tuyệt vọng đứng
ngóng chờ dưới bến không có ý nghĩa gì sao ? Tuyệt không đáng gì à ?
|
Nguyễn Ngọc Tư |
Chỉ biết đau khổ thôi thì không đủ. Cuộc sống tuy đáng sợ những cũng có cả tuyệt vời ... Làm thế nào tôi có thể mỉm cười khi lòng tôi tràn ngập nỗi buồn? Đó là tự nhiên thôi - Bạn cần phải mỉm cười với nỗi buồn của mình bởi vì bạn đâu phải chỉ là nỗi buồn ấy. Thich Nhat Hanh
Chủ Nhật, 30 tháng 9, 2012
Thương quá rau răm
Labels:
TRUYỆN CỰC NGẮN
Thứ Sáu, 28 tháng 9, 2012
Lama Zopa* kính mến - KHUÔN MẶT CON BỊ BIẾN DẠNG
(Dear Lama Zopa
Radical solutions for transforming problems into happiness)
Lama Zopa kính mến,
Khoảng một năm trước,
con bị tai nạn ô tô và quyết định làm phẫu thuật tạo hình khuôn mặt mình. Tóm lại,
có những biến chứng làm khuôn mặt con bị biến dạng. Từ ngày ấy, con luôn phải đấu
tranh với tình trạng này. Mọi thứ còn tệ hơn khi bạn trai con đã quen nhiều năm
đã quyết định chấm dứt quan hệ với con vì anh ấy cảm thấy bối rối với khuôn mặt
biến dạng của con và nói không còn yêu con nữa.
Con đã dành nhiều thời
gian suy nghĩ về việc giờ đây nên làm gì với cuộc đời mình. Con đang cố áp dụng
những lời dạy của thày trong cuốn "Chuyển Họa Thành Phúc" và muốn sử
dụng điều đã xảy ra cho mình để làm lợi ích cho những người khác. Con đang dự định
việc đi làm tại Maitri Leprosy Centre ở Bodhgaya, Ấn Độ, bởi vì con cảm thấy
mình có thể hiểu được những gì mà các bệnh nhân ở đó đang phải trải qua.
Thưa Rinpoche, hãy
cho con biết liệu đó có phải là một ý kiến tốt không.
Cầu chúc mọi tốt lành
đến với thầy,
Josefina, Madrid
Lama Zopa |
Josefina thân mến,
Việc đến làm việc tại
một trung tâm bệnh phong là cực kỳ tốt. Thầy hoàn toàn ủng hộ con. Đó là điều tốt
nhất để làm.
Đừng nghĩ về khuông mặt
của con nữa. Việc phục vụ người khác sẽ làm cho con cảm thấy bình an và hạnh
phúc trong tâm. Bởi vì con sẽ bận rộn ở đó nên con sẽ không còn tâm trí nào nghĩ
về khuôn mặt và người bạn trai của con nữa, những thứ đó đã làm cho con đau khổ
quá nhiều.
Ngoài ra, con cũng có
thể giúp đỡ dự án Universal Education School tại Bodhgaya và con có thể thực
hành thiền về cách phát triển lòng từ bi tới những người khác.
Với tình thương và cầu
nguyện cho con,
Lama Zopa
chú thích:* Lama Zopa là nhà lãnh đạo tinh thần cho mạng
lưới toàn cầu các trung tâm Phật giào và các hoạt động giúp đỡ mọi người theo
con đường này - Hội bảo tồn truyền thống Đại Thừa. Tất cả những lời khuyên của
Rinpoche đều dựa trên những lời dạy của Đức Phật.
Labels:
SỐNG VÀ SUY NGẪM
Thứ Năm, 27 tháng 9, 2012
TỪNG BƯỚC CHÂN ĐI
Bạn có thể đi như
gió, nhưng bạn đi nhanh như vậy để làm gì, để tìm kiếm cái gì cho hôm nay và
ngày mai?
Bạn đi nhanh như vậy,
tai nạn có thể xảy ra bất ngờ cho bạn hoặc bạn có thễ mang tai nạn đến cho người.
Tại sao trong cuộc sống
bạn không đi chậm lại, để nhìn kỹ và thưởng thức từng bước chân đi của bạn? Hạnh
phúc và an lạc không xảy ra trong từng bước chân nhảy vọt mà chĩ xảy ra trong từng
bước chân đi có ý thức của bạn.
Bạn biết không? Đi mà
không có ý thức chánh niệm thì đó là bước đi của những loài sống đời vô thức.
Muông thú, các loài côn trùng không có loài nào là không đi, không chuyển động,
nhưng chúng đi và chuyển động theo bản năng vô thức, do đó, mọi sinh hoạt của
chúng đều ở trong trạng thái si mê và mù quáng.
Vậy bạn là con người
đang sinh hoạt với thế giới ý thức từng bước chân đi của bạn một cách trọn vẹn.
Bạn phải đi từng bước bằng tất cả ý thức trọn vẹn của mình, bạn sẽ khám phá ra
mọi sự bình an trong đời sống hàng ngày và bạn sẽ tiếp nhận được sự sống là vô
cùng.
TT Thích Thái Hòa
Labels:
SỐNG GIẢN ĐƠN - AN LẠC
Thứ Tư, 26 tháng 9, 2012
VỀ HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI ĐÀNG NGOÀI VÀ SỰ NGHIÊM KHẮC CỦA HỌ VỚI TỘI NGOẠI TÌNH
Theo "Tập du ký
mới và kỳ thú về Vương Quốc Đàng Ngoài - 1681 - Jean-Baptiste Tavernier",
bản dịch của Lê Tư Lành*
Ảnh minh họa không cùng thời với bài viết |
Người Đàng Ngoài
không thể lấy vợ chồng được nếu cha mẹ không đồng ý và nếu cha mẹ đã chết thì
phải có những người thân cận nhất trong gia tộc thừa nhân mới được phép kết
hôn. Họ cũng cần phải có sự chấp thuận của quan cai trị hay quan tư pháp của địa
phương mới được phép cưới. Và nếu được quan đồng ý thì phải có quà biếu ông ta.
Vì những người đó thường đòi dân nghèo quá múc họ có thể nên nhiều đám cưới
không thực hiện được, gây thiệt hại lớn cho phúc lợi công cộng.
Nhà vua đang trị vì
năm 1639**khi được biết có sự tham nhũng và lộng hành đó bèn ra một sắc lệnh để
quy định việc đó và hạn chế quye62nn của các quan cai trị. Vua quy định rằng
người con trai nào muốn lấy vợ thì phải trả một món tiền tương xứng với tài sản
của người ấy, tức là vào khoảng 2.25%, còn người nào không có hơn 100 ecus thì
không phải trả gì cả.
Vì dân chúng, đàn ông
cũng như đàn bà rất chăm chỉ lao động, cho nên con gái làm được bao nhiêu thì
giữ lấy làm của riêng để khi đi lấy chồng có thể may hai, ba áo dài đẹp, sắm một
chuỗi hạt san hô hay hổ phách vàng và nhiều hạt cài vào tóc. Họ để những hạt đó
phủ xuống lưng, càng dài bao nhiêu thì họ cho là càng đẹp bấy nhiêu. Chẳng có
đám cưới nào lại không ăn uống đến ba ngày, nhiều khi ăn uống đến 9 ngày. Từ
sau ngày cưới, chồng gọi vợ là em, vợ gọi chồng là anh. Luật lệ của vương quốc
cho phép người đàn ông có thể bỏ vợ lúc nào cũng được., nhiều khi với những lý
do rất nhỏ nhặt, nhưng người đàn bà lại không có đặc quyền đó, hay ít ra họ cũng
gặp phải nhiều vấn đề khó khăn khi muốn chia tay. Luật lệ đó của người Đàng
Ngoài được làm ra để buộc người đàn bà phải giữ phận sự của người vợ và bắt buộc
họ bao giờ cũng phải tôn kính chồng họ. Khi người chồng muốn ly dị (gần đây đã
ít xảy ra) họ đã làm theo cách sau đây:
Tôi đã ghi trong du
ký của tôi rằng tại mấy xứ phương Đông, người ta không dùng tay bốc thịt, mà họ
dùng hai cái đũa con to bằng ngón tay út, dài bằng 6 ngón tay cái, sơn son,
quang dầu, dùng để gắp thịt, thay thế cho cái dĩa (fourchette). Nếu chồng muốn
bỏ vợ thì người ấy lấy một chiếc đũa của mình và một chiếc trong đôi đũa của vợ,
bẻ đôi hai chiếc đó ra, mội người cầm lấy một nữa đôi đũa gẫy đó, bỏ vào trong
cái túi bằng lụa để giữ lại về sau. Người chống bắt buộc phải trả lại những thứ
của cải mà người vợ đã mang về và phải có trách nhiệm giữ lại những con cái
chung để nuôi nấng. Nhưng như tôi đã nói, những cuộc ly dị đó ngày nay càng hiếm
xảy ra hơn trước.
Vả lại, luật lệ của
vương quốc rất nghiêm ngặt đối với tội ngoại tình. Nếu có thề chứng tỏ được rằng
một người đàn bà đã phạm tội đó và được người đó thừa nhận thì người ta đem ném
người đàn bà đó cho voi giày. Con voi được huấn luyện làm nhiệm vụ tàn ác đó bắt
đầu lấy vòi tung người đó lên rồi khi người đó rơi xuống đất, nó lấy chân giày
nát cho đến khi người ấy chết.
Khi em tôi ở triều
đình Đàng Ngoài, cậu ấy đã chứng kiến sự trừng phạt nghiêm khắc đó đối với một
công chúa cung phi đã bị bắt quả tang thông dâm với một vị hoàng tử. Vì rằng
câu chuyện khá ly kỳ và bi thảm nên tôi muốn thuật lại ở đây mấy câu. Ở các xứ
phương Đông, có một tục lệ rằng khi một vị vua chết đi thì người ta để tất cả
những người đàn bà đã từng phục vụ nhà vua khi còn sống tại một khu hẻo lánh ở
cuối hoàng cung. Người ta cấp cho mội người 2 cvo6 thị tỳ để hầu hạ. Họ ăn uống
một mình và cách biệt như vậy, chẳng nhìn thấy một ai cho đến khi chết. Người
ta chẳng biết một vị hoàng thân là em họ nhà vua đã dùng phương tiện gì và mưu
mẹo nào mà trước đây đã trông thấy một cung phi của nhà vua đã mất, vốn là bác
ruột hoàng tử này, nay hoàng tử muốn gập lại người đó, hoàng tử đã vượt mọi khó
khăn và đánh lừa được tất cả lính gác cửa. Hoàng tử dùng một mẹo mà khó ai có
thể khám phá ra được.
Trước hết, ta nên biết
rằng vương quốc Đàng Ngoài cũng như những vương quốc khác ở châu Á, ở trong
cung vua cũng như ở trong phủ các vị vương hầu, thường thường thì nhà bếp ở
cách xa nhà ở, thường là cách nhau một cái vườn. Đến giờ ăn cơm. muốn lấy thức
ăn từ bếp lên nhà, người ta dùng một cái hòm để thức ăn vào đó và muốn cho thức
ăn khỏi nguội, các đĩa thức ăn được đặt trên những then ngang cách nhau độ một
ngón tay. Ở dưới then ngang đó có một miếng sắt khác cách đáy hòm độ một gang
tay. Khoảng giữa miếng sắt và đáy hòm người ta đốt than để cho thức ăn được
nóng. Tôi đã trông thấy ở trong cung điện Versailles những cái hòm tương tự như
vậy và cũng dùng vào mục đích giữ nóng thức ăn, chỉ khác là không thể đốt lửa
trong đó như cái hòm ở Đàng Ngoài. Mỗi hòm có hai người khiêng. Vị hoàng tử đã
khéo léo ẩn núp trong hòm để được đem đến phòng người cung phi mà hoàng tử định
gặp và hoàng tử ở đó liền mấy hôm mà không ai hay biết. Hoàng tử liền bị đưa về
trước vua và ông bắt hoàng tử phải đeo xiềng vào cổ, vào tay và vào người, sau
đó cho người dắt đi suốt trong 5 tháng liền cho để cho dân chúng trông thấy.
Về sau, hoàng tử bị
nhốt vào trong một gian ngục hẹp trong bảy năm cho đến khi nhà vua qua đời. Mãi
sau khi thái tử lên nối ngôi, ông mới tha tội cho nhưng vẫn bắt đầy ra viễn
biên làm lính. Còn người cung phi bị giam vào một phòng nhỏ trên một cái chòi,
trong 12 ngày không ai được cho ăn uống gì hết, sau đó người ta cho dỡ mái
phòng ra cho ánh nắng gay gắt chiếu vào làm cho người lả đi mà chết. Bị đọa đày
tàn bạo như vậy được ba ngày thì người đó chết. Hai người thị tỳ hầu hạ bà ta cũng
chẳng được tha, bị mang ra quăng phía trước hoàng cung cho voi giày. Con voi lấy
vòi quắp lấy họ, quật xuống đất đến gần tắt thở, nó còn lấy chân xéo nát mình họ.
Còn hai người khiêng hòm thì bị phanh thây, không phải như ở châu Âu đem tội
nhân buộc vào mỗi con ngựa, mà là trói hai chân hai tay vào bốn chiếc thuyền,
cho thuyền cùng chèo đi, người bị xé nát ra. Khi tôi ở vương quốc Bengala, tôi
thấy ở thành phố Đaca trên bờ sông Hằng cùng xứ, một người Bà la môn cũng bị trừng
phạt bằng hình phạt đó. Người ấy định phản bội và bắt Cha-Estkau là chú ruột của
quốc vương Đại Mogol, đem nộp cho xứ Arachan. Chính người Bà la môn đó đã nhiều
lần lừa dối Hồi vương Sujah là em của Orengzeb, ông này hiện đang làm vua ở
Indoustan**
Chú thích của blog: *Bài viết này là một
tư liệu lịch sử hiếm hoi, được trích trong "Tập du ký mới và kỳ thú về
Vương Quốc Đàng Ngoài" - xuất bản lần đầu vào năm 1681 - do Jean-Baptiste
Tavernier biên soạn. Tập du ký này chủ yếu dựa vào nội dung bản thảo những ghi
chép của Daniel Tavernier (em trai của JB Tavernier) trong dịp ông ta đến Kẻ Chợ
(Đàng Ngoài) với tư cách là viên sĩ quan phụ trách về kế toán , hành chính trên
tàu buôn của công ty Đông Ấn Hà Lan trong khoảng thời gian từ 1639-1645. Chúng
ta được biết chiếc tàu buôn của công ty Đông Ấn Hà Lan đầu tiên đến kẻ chợ vào
năm 1637, dưới thời vua Lê Thần Tông - Trịnh Tráng. Cách hành văn của thời đó rất
lủng củng khác nhiều so với ngày nay, câu thì dài, lập đi lặp lại, chấm câu
không được mạch lạc, một số từ tác giả dùng cũng không đúng với sự vật muốn nói
... điều này khiến các người đọc Việt Nam ngày nay rất khó lĩnh hội.
** Ấn Độ
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)