T.I Robestson
Một xét nghiệm sinh
hóa ở một bệnh nhân nam 50 tuổi không có triệu chứng cho thấy có tăng nhẹ acid
uric trong máu. Thuốc điều trị gout làm giảm nồng độ aci uric trên bệnh nhân này
nhưng lại gây phát ban ở da toàn thân kéo dài đến … 3 tháng. Một bệnh nhân khác
55 tuổi nhập viện vì nhồi máu cơ tim được phát hiện có nồng độ Hb 110g/L qua
xét nghiệm máu thường quy. Phết máu gợi ý thiếu sắt. Tiến hành các xét nghiệm
tiếp theo phát hiện bệnh nhân bị ung thư trực tràng không triệu chứng và bệnh
nhân được phẫu thuật thành công. Hai ví dụ trên, bắt đầu từ các xét nghiệm thường
quy, một cho kết quả bệnh nhân bị tác dụng phụ từ điều trị mà lẽ ra không cần
thiết, và ngược lại, một đưa đến điều trị thành công sau khi khảo sát thêm một
bất thường rất nhỏ.
Chúng ta đang sống
trong mê cung của các xét nghiệm sinh hóa, các xét nghiệm sàng lọc và các xét
nghiệm thường quy, rất nhiều xét nghiệm không được yêu cầu và một số do chính bệnh
nhân đưa đến. Một nhóm phân loại mới được tạo ra : bệnh nhân không triệu chứng
có kết quả xét nghiệm bất thường. Những bệnh nhân này có nguy cơ đặc biệt. Một
số mới khởi bệnh, đang tiến triển hay có bệnh ở thể dưới lâm sàng và một số thì
hoàn toàn không bệnh. Nhưng tất cả họ lại có thể bị ảnh hưởng bởi các tư vấn y
khoa dành cho họ. Bỏ qua một xét nghiệm không quan trong có thể làm chết người,
tuy nhiên, có khi một xét nghiệm rõ ràng là bất thường, vì lợi ích của bệnh
nhân, có thể tốt nhất là nên để sang một bên. Thời đại của các quy trình sàng lọc
thường quy đã tạo ra những vấn đề và trách nhiệm mới và có khuynh hướng bị làm cho
phức tạp hơn thay vì chỉ điều trị đơn giản.
Khi nào một kết quả bất
thường sẽ được xem là bất thường không cần phải bàn cãi? Khi nào xét nghiệm đó
có ảnh hưởng đến bệnh nhân? Mức độ kiểm tra tiếp theo nên như thế nào? Khi nào
thì nên bỏ qua xét nghiệm? Có thể làm giảm mức độ vấn đề ngay từ đầu bằng cách
phân loại yêu cầu từ khảo sát ban đầu. Càng ít các xét nghiệm được yêu cầu đơn
độc (nghĩa là không căn cứ vào bệnh sử, khám lâm sàng hoặc xét đến vấn đề lâm
sàng) thì việc biện luận kết quả xét nghiệm sẽ càng ít gập khó khăn hơn. Nếu bản
thân bệnh nhân yêu cầu bất kỳ một xét nghiệm gì thì bệnh nhân đó nên được hỏi bệnh
sử và khám lâm sàng đầy đủ trước.
Sẽ không thực tế nếu
phủ nhận tính thuận tiện, ưu điểm và nhiều thông tin của các máy thử công thức
máu tự động và máy phân tích nhiều xét nghiệm sinh hóa. Tuy nhiên, khảo sát là
cần thiết nếu kết quả xét nghiệm giúp xác định hay loại bỏ một chẩn đoán. Không
nên dùng nó như một xét nghiệm cầu may. Nếu trên lâm sàng chỉ đòi hỏi một vài
xét nghiệm chọn lọc, hay phát sinh giả thuyết chẩn đoán dựa trên lâm sàng, thì
chỉ nên yêu cầu các xét nghiệp phù hợp. Các xét nghiệm tiếp theo có thể sẽ cấn làm
sau khi đã phân tích các xét nghiệm ban đầu và đây chính là cách tiếp cận nên lựa
chọn.
Bác sĩ thực hành lâm
sàng nên nâng cao kỹ năng chẩn đoán của mình bằng cách khám bệnh nhân thật kỹ
lưỡng, biết giới hạn các xét nghiệm và nắm vững ý nghĩa cũng như những mặt hạn
chế của các xét nghiệm chỉ định. Điều này đúng với tất cả những cơ sở thực hành
lâm sàng chứ không chỉ dành riêng cho các cơ sở giảng dạy.
Tuy vậy, trong thực tế,
vẫn thường gập vấn đề cần lý giải một kết quả xét nghiệm bất thường đơn độc.
1 nhận xét:
nên độc kỹ kết quả xét nghiệm rùi tìm đến bác sĩ nhờ tư vấn trước đã http://benhvienphuclam.com/2018/01/10/cach-doc-ket-qua-xet-nghiem-mau-chuan-xac-nhu-bac-si/
Đăng nhận xét