Bác sĩ Nguyễn văn Đích
Trường hợp bệnh lý-
Bà V.T.A. 63 tuổi bị tiểu đường từ năm 1999, năm 2002 được thấy có men gan tăng với ALT 150 (2-40 U/L), Hepatitis A AB (+), Hepatitis B S Ag (-) Hepatitis B S AB (-), Hepatitis C AB (+), Lượng Hepatitis C trên 600.000 đơn vị quốc tế/ml, AFP 7.8, siêu âm gan bình thường, sinh thiết gan cho thấy có xơ hóa trung bình ở khoảng cửa.
Bệnh nhân được khuyên điều trị bằng pegintron và ribavirin nhưng từ chối.
Bệnh nhân được theo dõi định kỳ, được chủng ngừa viêm gan siêu vi B, lượng siêu vi C thay đổi.
Ngày 30 -10-2010 Phophatase kiềm 141, AST 132 ALT 160 AFP 71.8 lượng siêu vi C 26.783.216 iu/ml, siêu âm gan bình thường.
Ngày 28-1-2011, sinh hiệu bình thường, ăn ngủ được, cân không thay đổi, gan lách không sờ thấy, bạch cầu 3.6 ngàn/ml huyết sắc tố 14.0 g/dl tiểu cầu 86.0 ngàn/ml AFP 182.0, đường huyết 115mg/dl, huyết sắc tố A1C 7.5 chức năng thận bình thường, đạm huyết 7.5 albumin 3.6 globulin 4.2 alkaline phospatase 164 AST 159 ALT155 Cholesterol toàn phần 245, HDL 58 LDL 165, máu ẩn trong phân âm.
Siêu âm gan ngày 2-10-2011cho thấy một khối u lớn ở thùy trái, MRI xác nhận khối u không đồng nhất kích thước 4.6x3.9x4.3 ở thùy trái.
Chẩn đoán: Viêm gan siêu vi C, ung thư tế bào gan, tiểu đường loại 2.
Xử trí: chuyển đến chương trình ghép gan.
Bà V.T.A. 63 tuổi bị tiểu đường từ năm 1999, năm 2002 được thấy có men gan tăng với ALT 150 (2-40 U/L), Hepatitis A AB (+), Hepatitis B S Ag (-) Hepatitis B S AB (-), Hepatitis C AB (+), Lượng Hepatitis C trên 600.000 đơn vị quốc tế/ml, AFP 7.8, siêu âm gan bình thường, sinh thiết gan cho thấy có xơ hóa trung bình ở khoảng cửa.
Bệnh nhân được khuyên điều trị bằng pegintron và ribavirin nhưng từ chối.
Bệnh nhân được theo dõi định kỳ, được chủng ngừa viêm gan siêu vi B, lượng siêu vi C thay đổi.
Ngày 30 -10-2010 Phophatase kiềm 141, AST 132 ALT 160 AFP 71.8 lượng siêu vi C 26.783.216 iu/ml, siêu âm gan bình thường.
Ngày 28-1-2011, sinh hiệu bình thường, ăn ngủ được, cân không thay đổi, gan lách không sờ thấy, bạch cầu 3.6 ngàn/ml huyết sắc tố 14.0 g/dl tiểu cầu 86.0 ngàn/ml AFP 182.0, đường huyết 115mg/dl, huyết sắc tố A1C 7.5 chức năng thận bình thường, đạm huyết 7.5 albumin 3.6 globulin 4.2 alkaline phospatase 164 AST 159 ALT155 Cholesterol toàn phần 245, HDL 58 LDL 165, máu ẩn trong phân âm.
Siêu âm gan ngày 2-10-2011cho thấy một khối u lớn ở thùy trái, MRI xác nhận khối u không đồng nhất kích thước 4.6x3.9x4.3 ở thùy trái.
Chẩn đoán: Viêm gan siêu vi C, ung thư tế bào gan, tiểu đường loại 2.
Xử trí: chuyển đến chương trình ghép gan.
Nhận xét-
Ta tiếc rằng bệnh nhân này đã không được điều trị viêm gan siêu vi C từ khi mới phát hiện. Ngày nay bệnh siêu vi có thể chữa được và ung thư có thể ngừa được. Trong quá trình sinh sản siêu vi viêm gan C phát sinh nhiều di chủng (genotypes) khác nhau: chủng 1 thường gặp ở Mỹ và Âu châu, chủng 2 và 3 ở Nam Á, chủng 4 ở Phi châu và Trung Đông, chủng 5 ở Nam Phi, chủng 6 ở Việt nam, Hồng kông và Úc châu.
-Viêm gan siêu vi C có thể chữa được bằng pegintron kết hợp với ribavirin, chủng 1 và 4 có kết quả thấp chừng 40%, chủng 2 và 3 đáp ứng tốt, kết quả từ 60-80%, chủng 5 và 6 kết quả không rõ, có người cho biết kết quả ở bệnh nhân Việt nam có thể đạt 78%. Các bác sĩ hành nghề ở Việt nam có thể giúp cho biết kết quả điều trị viêm gan siêu vi C di chủng 6. Các thuốc boceprevir và telaprevir kết hợp với pegintron và ribavarin tăng gấp đôi hiệu quả điều trị viêm gan siêu vi C chủng 1. Hướng dẫn của Hội Nghiên cứu Bệnh Gan của Hoa kỳ (AASLD) khuyên nên làm sinh thiết để đánh giá tình trạng của gan trước khi điều trị tuy không cho rằng đó là một chỉ định tuyệt đối. Nếu đòi hỏi phải có sinh thiết mới điều trị thì nhiều bệnh nhân gốc Á châu sẽ từ chối.
- Nhiều bệnh nhân bị viêm gan siêu vi C hay dùng dược thảo tuy lợi ích không được chứng minh bằng nghiên cứu đáng tin cậy trong khi có báo cáo cho thấy một số dược thảo nhất là hỗn hợp dược thảo liên hệ với phản ứng độc hại ở gan, gây viêm gan cấp và tử vong. Bệnh nhân cần tham khảo với bác sĩ và chỉ dùng thuốc khi thật sự cần thiết.
- Sự điều trị điều trị bằng pegintron kết hợp với ribavirin có thể loại trừ siêu vi viêm gan C, ngăn chặn xơ gan và giảm nguy cơ ung thư tế bào gan. Những bệnh nhân tuy không còn nhiễm nhưng nếu đã bị xơ gan vẫn có nguy cơ bị mất bù, bị ung thư tế bào gan và tử vong trong 5 năm nên vẫn cần được theo dõi định kỳ. Dù không chữa, bệnh nhân nhiễm siêu vi viên gan C cần được siêu âm gan mỗi năm, những trường hợp siêu âm nghi ngờ sẽ được làm MRI. Bệnh nhân có nguy cơ cao cần siêu âm mỗi 6 tháng.
- Một khối u mới xuất hiện ở một người bị viêm gan C mãn được coi là ung thư, không cần kiểm chứng bằng sinh thiết.
- Cách chữa ung thư tế bào gan hiện nay là thay gan nếu khối u dưới 5 cm đường kính do đó có nhu cầu sàng lọc ung thư ở những người có nguy cơ cao. Trong thực tế ung thư gan thường được phát hiện trễ. Các ung thư lớn hơn có thể điều trị cho nhỏ lại bằng arterial chemoembolisation trước khi có thể được chấp nhận vào chương trình thay gan. Thuốc sorafenib chỉ có thể kéo dài đời sống chừng 6 tháng.
- Bênh nhân được nhận vào chương trình thay gan cần được điều trị bằng pegintron-ribavirin triệt tiêu siêu vi viêm gan C trong máu để ngừa viêm gan siêu vi C cấp sau giải phẫu.
- Viêm gan siêu vi C có thể điều trị được tuy sự điều trị kéo dài, tốn kém và có nhiều tác dụng phụ. Các thuốc ức chế proteinase như boceprevir và telaprevir tuy có tác dụng đối với viêm gan siêu vi chủng 1 mà không có tác dụng đối với các chủng khác nhưng đã mở ra hy vọng cho những nghiên cứu để tìm những phương pháp điều trị viêm gan siêu vi C hữu hiệu và ít tác dụng phụ hơn trong tương lai.
Ta tiếc rằng bệnh nhân này đã không được điều trị viêm gan siêu vi C từ khi mới phát hiện. Ngày nay bệnh siêu vi có thể chữa được và ung thư có thể ngừa được. Trong quá trình sinh sản siêu vi viêm gan C phát sinh nhiều di chủng (genotypes) khác nhau: chủng 1 thường gặp ở Mỹ và Âu châu, chủng 2 và 3 ở Nam Á, chủng 4 ở Phi châu và Trung Đông, chủng 5 ở Nam Phi, chủng 6 ở Việt nam, Hồng kông và Úc châu.
-Viêm gan siêu vi C có thể chữa được bằng pegintron kết hợp với ribavirin, chủng 1 và 4 có kết quả thấp chừng 40%, chủng 2 và 3 đáp ứng tốt, kết quả từ 60-80%, chủng 5 và 6 kết quả không rõ, có người cho biết kết quả ở bệnh nhân Việt nam có thể đạt 78%. Các bác sĩ hành nghề ở Việt nam có thể giúp cho biết kết quả điều trị viêm gan siêu vi C di chủng 6. Các thuốc boceprevir và telaprevir kết hợp với pegintron và ribavarin tăng gấp đôi hiệu quả điều trị viêm gan siêu vi C chủng 1. Hướng dẫn của Hội Nghiên cứu Bệnh Gan của Hoa kỳ (AASLD) khuyên nên làm sinh thiết để đánh giá tình trạng của gan trước khi điều trị tuy không cho rằng đó là một chỉ định tuyệt đối. Nếu đòi hỏi phải có sinh thiết mới điều trị thì nhiều bệnh nhân gốc Á châu sẽ từ chối.
- Nhiều bệnh nhân bị viêm gan siêu vi C hay dùng dược thảo tuy lợi ích không được chứng minh bằng nghiên cứu đáng tin cậy trong khi có báo cáo cho thấy một số dược thảo nhất là hỗn hợp dược thảo liên hệ với phản ứng độc hại ở gan, gây viêm gan cấp và tử vong. Bệnh nhân cần tham khảo với bác sĩ và chỉ dùng thuốc khi thật sự cần thiết.
- Sự điều trị điều trị bằng pegintron kết hợp với ribavirin có thể loại trừ siêu vi viêm gan C, ngăn chặn xơ gan và giảm nguy cơ ung thư tế bào gan. Những bệnh nhân tuy không còn nhiễm nhưng nếu đã bị xơ gan vẫn có nguy cơ bị mất bù, bị ung thư tế bào gan và tử vong trong 5 năm nên vẫn cần được theo dõi định kỳ. Dù không chữa, bệnh nhân nhiễm siêu vi viên gan C cần được siêu âm gan mỗi năm, những trường hợp siêu âm nghi ngờ sẽ được làm MRI. Bệnh nhân có nguy cơ cao cần siêu âm mỗi 6 tháng.
- Một khối u mới xuất hiện ở một người bị viêm gan C mãn được coi là ung thư, không cần kiểm chứng bằng sinh thiết.
- Cách chữa ung thư tế bào gan hiện nay là thay gan nếu khối u dưới 5 cm đường kính do đó có nhu cầu sàng lọc ung thư ở những người có nguy cơ cao. Trong thực tế ung thư gan thường được phát hiện trễ. Các ung thư lớn hơn có thể điều trị cho nhỏ lại bằng arterial chemoembolisation trước khi có thể được chấp nhận vào chương trình thay gan. Thuốc sorafenib chỉ có thể kéo dài đời sống chừng 6 tháng.
- Bênh nhân được nhận vào chương trình thay gan cần được điều trị bằng pegintron-ribavirin triệt tiêu siêu vi viêm gan C trong máu để ngừa viêm gan siêu vi C cấp sau giải phẫu.
- Viêm gan siêu vi C có thể điều trị được tuy sự điều trị kéo dài, tốn kém và có nhiều tác dụng phụ. Các thuốc ức chế proteinase như boceprevir và telaprevir tuy có tác dụng đối với viêm gan siêu vi chủng 1 mà không có tác dụng đối với các chủng khác nhưng đã mở ra hy vọng cho những nghiên cứu để tìm những phương pháp điều trị viêm gan siêu vi C hữu hiệu và ít tác dụng phụ hơn trong tương lai.
Tham khảo-
Ghany MG et al, Diagnosis, Management, and Treatment of Hepatitis C: An Update, AASLD Guidelines, 2009.
Jensen DM, A New Era of Hepatitis C Therapy Begins, N Engl J Med 2011, 364 (13): 1272-1273.
Seeff LB, Herbal Hepatotoxicity, Clin Liver Dis 2007:11:577-596.
Ghany MG et al, Diagnosis, Management, and Treatment of Hepatitis C: An Update, AASLD Guidelines, 2009.
Jensen DM, A New Era of Hepatitis C Therapy Begins, N Engl J Med 2011, 364 (13): 1272-1273.
Seeff LB, Herbal Hepatotoxicity, Clin Liver Dis 2007:11:577-596.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét