by Linh H.
Vo on Saturday, March 31, 2012 at 1:25pm(facebook)
Khi đi thực tập lâm sàng tại các bệnh viện, chúng ta có thể
thấy một số đơn vị điều trị chính thức khuyến cáo không dùng dung dịch Hartmann
(hoặc Lactated Ringer) trong điều trị nhiễm toan, thí dụ lactic acidosis,
ketoacidosis… vì cho rằng truyền lactate trong các trường hợp này sẽ làm nặng
thêm tình trạnh nhiễm toan, hoặc gây ra lactic acidosis. Bài viết này nhằm phân
tích để làm sáng tỏ vấn đề này.
Sodium lactate: CH3 – CHOH – COONa
Lactic acid: CH3 – CHOH – COOH
Thành phần của dung dịch Hartmann và Lactated Ringer
Bảng sau đây tóm tắt thành phần của dung dịch Hartman và
dung dịch Lactated Ringer.
Nói chung các dung dịch này có các chất điện giải cũng “giống
giống” với huyết thanh, trừ nồng độ sodium (Na) “hơi thấp” và nồng độ lactate
khá cao để đảm bảo tính đẳng trương và trung hoà về điện.
Vì hai dung dịch này có thành phần và nồng độ các thành phần
gần giống nhau nên những bàn luận về dung dịch Hartmann có thế áp dụng cho dung
dịch Lactated Ringer. Nhằm mục đích ngắn gọn, bài viết này chỉ đề cập đến dung
dịch Hartmann.
Tóm tắt sự chuyển hóa của lactic acid trong cơ thể
Lactic acid được tạo ra từ sự chuyển hóa của pyruvic acid. Một
người trưởng thành trung bình tạo ra lactic acid ở mức15-20 mmol/kg/ngày, chủ yếu
từ glucose qua glycolytic pathway hoặc từ sự khử amin của alanine.
Lactic acid nhanh chóng được đệm một phần bởi HCO3- ngoại
bào, tạo ra lactate:
CH3 – CHOH – COOH + NaHCO3 --> Na+ lactate- + H2CO3
--> CO2 + H2O
Trong gan và một phần trong thận, lactate được chuyển hóa trở
về pyruvate, rồi được chuyển hóa tiếp thành hoặc CO2 và H2O (80%, nhờ vào
pyruvate dehydrogenase) hoặc glucose (20%, nhờ pyruvate carboxylase). Cả hai
quá trình này đều có thể tái tạo HCO3- đã mất trước đó trong quá trình đệm
lactic acid ban đầu:
Lactate + 3O3 --> HCO3- + 2CO2 + 2H2O
2 Lactate + 2H2O + 2CO2 --> 2HCO3- + glucose
Lactate trong dung dịch Hartmann
Điều quan trọng chúng ta cần nhớ: “lactic acid là một acid
nhưng lactate là một base”. Lactate trong dung dịch Hartmann là một conjugate
base của lactic acid.. Khi được chuyển hóa trong gan nó sẽ tiêu thụ H+ và tạo
ra rất nhiều HCO3- gây kiềm chuyển hóa.
Việc truyền lactate trong dung dịch Hartmann không bao giờ
gây ra lactic acidosis bởi vì nó là một base (Na+ lactate-) chứ không phải là một
acid. Khi được chuyển hóa tại gan, lactate sẽ tạo ra HCO3- chứ không phải H+.
Có thể dùng dung dịch Hartmann trong các trường hợp toan
chuyển hóa không, thí dụ trong lactic acidosis, diabetic koetacidosis….?
Trước hết, chúng ta cần lưu ý những điều sau đây:
Dung dịch Hartmann có nồng độ sodium cao nên nó là một dung
dịch thay thế dịch ngoại bào hiệu quả. Truyền tĩnh mạch một lượng thích hợp có
thể điều chỉnh thiếu thể tích tuần hoàn nội mạch.
Lactate không thể đệm H+ (để hình thành lactic acid) ở pH
sinh lý (khoảng 7.40) vì pKa (khoảng 4.0) của phản ứng quá thấp
Bình thường, lactate có thể được chuyển hóa tại gan và quá
trình này tiêu thụ H+ (tương đương với sự hình thành HCO3).
Ở bệnh nhân bị lactic acidosis, sự chuyển hóa lactate ở gan
thường không đủ để chuyển hóa lượng lactate nội sinh. Do đó sự sản xuất HCO3- từ
lactate ngoại sinh (qua truyền tĩnh mạch) cũng suy giảm. Vì vậy, cho đến khi sự
chuyển hóa tại gan được điều chỉnh thì lactate truyền vào mới có thể được xem
thành nguồn cung cấp HCO3-.
Nồng độ lactate huyết thanh là một chỉ điểm độ nặng của
lactic acidosis vì mỗi lactate tương đương với một H+ được hình thành. Nếu
sodium lactate (Na lactate) trong dung dịch Hartmann được truyền vào thì mức
lactate đo được không còn là chỉ điểm tin cậy vì toàn bộ lactate đo được không
còn phản ảnh lượng H+ tương đương được hình thành trong cơ thể.
Vì vậy, dung dịch Hartmann là một dung dịch thay thế dịch
ngoại bào rất tốt để điều chỉnh tình trạng giảm thế tích. Khi tuần hoàn cải thiện,
chức năng chuyển hóa lactate của gan cũng trở về bình thường. Khi đó HCO3- được
hình thành và dung dịch Hartmann gián tiếp hỗ trợ điều chỉnh lactic acidosis.
Tuy nhiên bản thân lactate nội sinh được chuyển hóa tại gan cũng tạo ra rất nhiều
HCO3- và là yếu tố chính trong việc điều chỉnh acidosis. Nếu chuyển hóa gan
không được cải thiện, lactate truyền vào sẽ ảnh hưởng đến việc sử dụng mức
lactate như là một chỉ điểm mức độ nặng của lactic acidosis.
Tóm tắt
Để thay thế dịch ngoại bào, chúng ta có thể sử dụng các loại
dung dịch khác mà không cần dung dịch Hartmann. Lactate trong dung dịch
Hartmann không phải là một chất đệm trực tiếp(direct buffer) hiệu quả cho tình
trạng nhiễm toan. Lactate trong dung dich Hartmann có tính chất đệm gián tiếp
qua việc hình thành HCO3- khi nó được chuyển hóa tại gan. Tuy nhiên, khi đó
lactate nội sinh lại là nguồn lactate chính để gan chuyển hóa và tham gia vào
quá trình điều chỉnh tình trạng nhiễm toan. Việc truyền lactate trong tình trạng
nhiễm toan không làm nặng hơn tình trạng nhiễm toan, nhưng nó có thể làm sai lạc
sự diễn giải khi đo mức lactate huyết thanh để đánh giá mức độ nặng và theo dõi
đáp ứng điều trị trong lactic acidosis.
3 nhận xét:
Cám ơn anh Linh và thầy Thy Anh. Bài viết rất hay và bổ ích.
Thầy ơi cho con xin tài liệu tham khảo về bài này được không ạ
Đăng nhận xét