Thứ Sáu, 31 tháng 12, 2010

Another fresh new year is here . . .



Another fresh new year is here . . .
Another year to live!
To banish worry, doubt, and fear,
To love and laugh and give!

This bright new year is given me
To live each day with zest . . .
To daily grow and try to be
My highest and my best!

I have the opportunity
Once more to right some wrongs,
To pray for peace, to plant a tree,
And sing more joyful songs!
William Arthur Ward

mời xem thêm SỐNG GIẢN ĐƠN HẠNH PHÚC HƠN

Thứ Ba, 28 tháng 12, 2010

Thiền là gì?

 
 
 
Thiền trong tiếng Anh, tùy theo ngữ cảnh, có thể được dịch như một danh từ: meditation, contemplation, concentration, abstraction, trance…hoặc như một động từ: to meditate, to comtemplate, to think of, to imagine, to call to mind, to recollect…Tuy nhiên tất cả các từ này đều chỉ đúng theo từng ngữ cảnh riêng biệt mà thôi, có nghĩa là không được đúng theo ý nghĩa tổng quát nhất.
Định trong tiếng Anh phổ thông được dịch là “concentration”, âm Pali được Latin hóa là “Samadhi” hoặc “samatha”
Quán trong tiếng Anh được dịch là “contemplation”. Từ “Tuệ quán” của Đạo Phật Nguyên Thủy được dịch theo âm Pali Latin hóa là “Vipassana”.
Có trường hợp vì không biết đến các phái thiền khác nhau, nên nhiều người vẫn liên tưởng thiền là Zen!
Ở Việt Nam hay các quốc gia có Đạo Phật, nói đến “thiền” thì đa số người đều liên tưởng đến phương pháp hành trì của Phật giáo. Tuy nhiên, ở Ấn Độ nói đến “thiền” thì người ta lại liên tưởng đến Bà La Môn giáo hoặc các tôn giáo khác cùng ở khu vực này. Ngay trong Phật giáo, chữ “thiền” cũng được dịch từ những chữ có nội dung khác biệt!
- Thiền, trong kinh điển Phật giáo nguyên thủy, viết bằng tiếng Pali là bhavana dùng để chỉ những pháp thực hành nhằm rèn luyện tâm. Phật giáo nguyên thủy có hai pháp thực hành: Pháp hành thiền định (samatha bhavana) và pháp hành thiền quán (vipassanabhavana).
- Định, trong Phật giáo nguyên Thủy gọi bằng tiếng Pali là Jhana. Trong kinh điển Phật giáo phát triển, tức Phật giáo đại thừa, Định được gọi bằng tiếng Sanskrit là dhyana .
Khái niệm “Thiền” của Phật giáo đại thừa bị thay đổi theo từng quan niệm khác nhau của các tông phái khác nhau. Vì khi phát triển thành Phật giáo Đại thừa người ta sử dụng các phương pháp thiền rất khác biệt với nhau và các phương pháp đó nhiều khi chẳng còn mối liên hệ nào với pháp thiền mà Đức Phật Gautama đã từng thực hành và giảng dạy. Giữa thập đại tông phái của Đại thừa, khó xác định được tông phái nào có xử dụng hoặc không xử dụng loại thiền nào!
Tuy nhiên, còn nhiều phương pháp thiền khác, cũng được dùng trong Yoga hoặc các phái  Bà La Môn, trong Lão giáo… Vậy chữ Thiền chỉ là một từ gọi “chung chung” của rất nhiều các nội dung rất khác biệt. Với kiến thức phổ thông, thiền cũng thường được hiểu như phương pháp thư dãn, chống stress, cân bằng đầu óc, giữ  gìn sức khỏe v.v….

Chỉ với kiến thức thật chuyên môn thì ta mới có thể phân biệt giữa thiền của Đức Phật Gautama tức thiền nguyên thủy với thiền của Phật giáo phát triển, thiền của Thiền tông, thiền của Kim cương thừa (Mật tông Phật giáo), thiền của Yoga, thiền của các phái Bà La Môn khác hay thiền của đạo Lão v.v…

Thin là gì?

Osho
G. Krishnamurti
Bởi vì thiền là phương pháp của nhiều tôn giáo và pháp môn hoàn toàn khác biệt, nên câu hỏi “thiền là gì?” quả là một câu hỏi không được rõ ràng và vì thế chưa thể có câu trả lời chính xác. Nhưng đối với đa số những người sơ tâm, đó lại là một câu hỏi luôn được đặt ra với nhiều trăn trở. Bài viết này là một cố gắng để trả lời một câu hỏi rất “mơ hồ”, nhưng rất thường được đặt ra! Và bài viết này coi Thiền là một từ chung mà ta thường gặp, nghĩa là phạm trù của nó, không thuộc về riêng của một tôn giáo hay tông phái nào cả.
Google mệnh đề ‘Thiền là gì?” cho ra những trang kết quả tiếng Việt với quá nhiều các câu trả lời khác biệt. Mỗi người đứng ở những pháp môn khác nhau, ở những góc độ khác nhau, cho nên những câu trả lời cũng khác nhau. Sau đây là một số câu trả lời tìm thấy ngẫu nhiên trên Internet ngay trong thời điểm viết bài này, tôi để links dẫn như một bằng chứng cho việc giải thích rất khác biệt về một chữ “Thiền”!
Của trang
Yoga VN: Theo thuật ngữ Yoga, Thiền được gọi là “Dhyana” nghiã là “dòng chảy của tâm trí”. Đây là một trạng thái tinh khiết và tập trung cao độ khi tâm trí xuôi chảy không gì ngăn trở, hoàn toàn đắm mình trong ý nghĩ về Ý Thức Vũ Trụ.
Của
Answers.Yahoo.vn : Thiền định có tác dụng điều chỉnh mọi hoạt động của cơ thể, tạo lập sự cân bằng nội tại. Ngoài tác dụng thư giãn, nó còn giúp phòng và chữa các bệnh do mất cân bằng chức năng cơ thể.
Của
Wiki tiếng Việt: Tất cả các trào lưu triết học Ấn Độ đều hiểu dưới gốc động từ này là sự tư duy, tập trung lắng đọng và vì vậy, ta cũng tìm thấy từ dịch ý Hán-Việt là là Tĩnh lự (zh. 靜慮). Các cách phiên âm Hán-Việt khác là Đà-diễn-na (zh. 馱衍那), Trì-a-na (持阿那). Đây là một thuật ngữ được nhiều tôn giáo sử dụng để chỉ những phương pháp tu tập khác nhau, nhưng với một mục đích duy nhất là: đạt kinh nghiệm “Tỉnh giác”, “Giải thoát”, “Giác ngộ”…
Của
một sư cô: Thiền là gì? Thiền là trạng thái tâm vắng lặng trước sự vật, hiện tượng xảy ra trước mặt hay xung quanh ta….
Của
một hòa thượng: Một câu hỏi khó giải đáp, vì Thiền phủ nhận tất cả, vì bản chất của Thiền vượt ngoài định nghĩa và giải thích, không có ngôn ngữ và văn tự, lời dạy đặc biệt ngoài kinh điển, hay “biệt truyền ngoài giáo điển”, chỉ thẳng vào tâm, thấy tánh thành Phật “trực chỉ minh tâm, kiến tánh thành Phật”.
Của
Krisnamurti: Thiền không phải là phương tiện. Nó là cả hai: phương tiện và cứu cánh. Thiền là một điều phi thường. Nếu có bất cứ một sự bắt buộc, cố gắng bắt tư tưởng phải tuân thủ, bắt chước, thì Thiền sẽ là một gánh nặng·
Của
Osho : Vậy Thiền không phải là chống lại hành động. Bạn không cần phải thoát ly ra khỏi cuộc sống. Nó đơn thuần dạy bạn một cách sống mới: Bạn trở thành trung tâm của cơn xoáy lốc. Cuộc sống của bạn cứ tiếp diễn, nó cứ ngày một mạnh mẽ thêm, với nhiều niềm vui sướng hơn, với nhiều sáng tỏ hơn, nhiều cái nhìn hơn, nhiều sáng tạo hơn, mà bạn thì vẫn đứng xa, chỉ là một người quan sát trên đồi, đơn thuần thấy tất cả những điều đang xảy ra quanh bạn.
Các câu trả lời vừa liệt kê ở trên, cho thấy có rất nhiều kiểu trả lời với những nội dung rất khác biệt. Vì thế, vấn đề quả thực rất không đơn giản. Câu hỏi thiền là gì? Luôn là nỗi bức xúc cho một người sơ tâm mới bước vào thiền. Vô số sách về Yoga và Thiền định đã được xuất bản, và hiện nay có thêm cả Internet, một khối tư liệu thật phong phú của toàn thế giới. Nhưng nếu không khéo, càng đọc càng lẫn lộn! Chỉ có người thực sự có thể nghiệm về thiền mới có thể viết hoặc dịch những tài liệu về thiền một cách đúng đắn và chính xác. Nếu người viết hoặc dich sách hoàn toàn không có kinh nghiệm thực hành, thì bạn sẽ nhận thấy ngay rằng cuốn sách luôn có biểu hiện rối rắm khó hiểu. Sụ khó hiểu ít khi ở bản chất vấn đề, mà chính ở tại người giải thích. Tôi không tin nhiều lắm ở luận điệu cho rằng nội dung thiền là không thể diễn đạt, bất khả tư nghì. Hoặc là phát biểu, hai là phải im lặng. Không thể cứ nói, cứ viết tràng giang, in sách lấy tiền rồi cuối cùng lại kết luận là tri giả bất ngôn! (biết thì không nói được) hoặc bất khả tư nghì! (không thể nghĩ bàn). Như vậy phải chăng là chơi khăm độc giả? Tôi nhớ có đọc rất nhiều luận điệu kiểu “thiền thì không thể diễn đạt”, “Đi đứng nằm ngồi cũng là thiền !” hoặc “Thiền là nhướng mày chớp mắt”. Hiện tại, trên đa số sách báo, ta luôn gặp những lời giải thích đầy “phong cách thiền” đại loại giống như vậy. Một thiền sư có thể nghiệm thiền đầy đủ thì dù có dùng lời lẽ bình dị mộc mạc thì người nghe vẫn hiểu, vẫn thấy nó là ngôn ngữ trí huệ. Một người không có thể nghiệm hoặc thể nghiệm quá ít, dù có xử dụng ngôn ngữ uyên thâm trác tuyệt, thì trước sau cũng chỉ là loại “ngôn ngữ nhái” rỗng tuếch. Cũng phải biết rằng, Đức Phật trong lúc giảng dạy, ngài không dùng thứ ngôn ngữ bác học lúc bấy giờ, mà dùng ngôn ngữ bình dị của giới dân giả đó là tiếng Pali. Phải biết rằng những trải nghiệm thiền (Định và Quán), đã từng được mô tả rất mạch lạc và rõ ràng trong kinh điển Phật giáo. Không hiểu sao, qua một thời gian dài “phát triển”, thế hệ sau lại tránh né những mô tả cần thiết này. Tôi để chữ “phát triển” trong ngoặc như một nỗi băn khoăn!

Trên sách báo chữ “Thiền” được sử dụng rất rộng rãi, vì thế nếu không so sánh nó trong ngữ cảnh riêng biệt thì dễ lẫn lộn. Có khi “Thiền” được dùng như là một động từ:· “Thiền” là động tác quay tâm vào trong, an trú tâm trên một đối tượng. Phật giáo nguyên thủy có định nghiã kinh điển: Samatha là an trú tâm trên một đối tượng nhất định, làm vắng lặng năm pháp chướng ngại (triền cái) bằng năm chi thiền để đạt được lần lượt bốn định hữu sắc hay vô sắc.· “Thiền” cũng là động tác quan sát theo dõi các đối tượng về thân hay tâm: Ví dụ: “Thiền quán” tức Vipassana. Đối với thiền Phật giáo, nên tránh dùng chữ “thiền” chung chung, mà nên dùng chữ “thiền-định” hay “thiền-quán” để thật rõ nghĩa.. “Thiền” cũng được dùng như là một danh từ. Trong một số các tài liệu, “thiền” có thể được dùng để chỉ một trạng thái. Ví dụ, trạng thái của thiền định của Thiền nguyên thủy bao gồm tám trạng thái của bốn định hữu sắc và bốn định vô sắc. Danh từ “Thiền” trong ngôn ngữ bình thường có thể ám chỉ một kĩ thuật hay phương pháp. Ví dụ: thiền định chỉ, thiền quán chiếu, thiền tĩnh, thiền động, Như lai thiền, Tổ sư thiền v.v… Có người (ví dụ Krisnamurti) nói rằng thiền không cần đến phương pháp và kĩ thuật, vì phương pháp hay kĩ thuật vận dụng đến đầu óc (mind), cho nên chỉ làm chướng ngại việc nhập thiền. Điều đó đúng! Nhưng Osho phân tích rằng, trước khi đi đến trạng thái thiền, đầu óc có quá nhiều chướng ngại (năm triền cái, the five hidrances), nên cần phải có kĩ thuật để vượt những chướng ngại này. Phương pháp hay kĩ thuật là để chuẩn bị cho giai đoạn trước thiền. Hoặc ta cũng có thể nghe một kiểu nói rất “phong cách thiền” là: thiền không có “động” cho nên không thể có “động từ thiền”. Điều này đúng với tình trạng của thiền chỉ (samatha) nhưng không đúng với thiền quán (vipassana). Ngay trong trường hợp của chỉ (samatha), khi chuẩn bị bắt đầu vào “chỉ” thì ta đã làm một động tác rồi! Tóm lại, phân biệt danh từ, động từ, hay thế này thế nọ, cốt làm sao cho người muốn tìm hiểu, nắm bắt cái khái niệm chung nhất của chữ thiền, chữ mà ta thường đọc được trên sách báo.

Bây giờ tài liệu trên Internet về kinh luận của PG Nguyên thủy, PG Đại thừa, Mật tông, Thiền tông, Yoga v.v…quá đầy đủ, cho nên việc tìm hiểu và so sánh giữa các loại “Thiền” có phần dễ dàng hơn. Câu hỏi Thiền là gì phải được trả lời tùy theo nội dung mà nó muốn ám chỉ. Nghĩa là câu trả lời phải tùy theo từng tôn giáo hoặc pháp môn. Xin liệt kê sau đây một số nội dung chính:

Thin ca Đo Pht nguyên thy

Gồm có hai kỹ thuật chính là Thiền Định (samatha) và Thiền Tuệ Quán (vipassana). Đối với Đạo Phật Gautama, khi nói đến thiền nhất thiết phải phân biệt đó là Thiền Định hay Thiền Quán. Thiền định còn gọi là Định hay  Tịnh chỉ, là pháp an trú tâm trên một đối tượng. Thiền quán là công phu quán sát các đối tượng, hiện tượng đang hiện hữu, diễn biến, xảy ra trong thân và tâm với mục đích để nhìn thấy tính duyên hợp, vô thường và vô ngã của chúng. Cần nên biết: Thiền định của Phật giáo nguyên thủy đưa đến bốn bậc thiền hữu sắc là sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, và bốn bậc thiền vô sắc là không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ và phi tưởng phi phi tưởng xứ. Những thiền định nói trên mặc dù có nguồn gốc trước  Đạo Phật và không đưa đến bốn đạo quả, nhưng vẫn là kĩ thuật luyện tâm song song với pháp thiền quán. Pháp Thiền Quán được coi là một sáng tạo riêng của Đức Phật. Việc thực hành Thiền quán cần sử dụng năng lực của định (samadhi) để nhìn thấy rõ các pháp chân đế (paramattha) như chúng thực sự là, cho nên công phu thiền định là một lợi thế cho thực hành thiền tuệ quán. Theo một vài luận giải của Phật Giáo Nguyên Thủy thì Thiền Định (Samadhi) là một công cụ nhất định để thực hành thành công Thiền Quán (Vipassana).

Thin ca Pht giáo đi tha

Khi Đạo Phật không còn nguyên thủy và “phát triển” thành Đại thừa, thiền cũng thay đổi và biến tướng khác đi.  Samadhi của Phật Giáo Đại Thừa có nhiều loại, mỗi loại có một lợi ích riêng và mỗi loại đều có một tên gọi rất là dài. Trong Mahavyutpattit (Phiên dịch Danh Nghĩa Đại tâp) chương 21 có liệt kê 118 loại Định (samadhi). Sự “phát triển” của Phật Giáo đã biến đổi một pháp thiền định duy nhất (Jhana) được  mô tả trong kinh điển nguyên thủy (suttas) thành vô số các loại định, rồi thậm chí thành những loại “giống như  định”, đó là niệm Phật hoặc niệm chú. Thậm chí có những thày tu không còn nhắc nhở đến những pháp thiền định hay thiền quán nữa. Như vậy, từ Phật giáo nguyên thủy đến Phật giáo đại thừa, Thiền đã có sự thay đổi hình thức và bản chất rất lớn. Chẳng hạn pháp thiền Lục Diệu pháp môn của Trí Khải (Đại thừa Trung Quốc) không có nội dung từ  các bộ Nikaya, mà lại thấm đậm hương vị Lão giáo. Từ “Thiền của Phật giáo đại thừa” đến “Thiền của Thiền tông” lại thêm một thay đổi nội dung lớn hơn nữa. Mặc dù tự  nhận là một phát triển của Phật giáo Đại thừa nhưng Thiền Tông Trung Quốc (Thiền Đông Độ) có một sắc thái rất đặc thù Trung Quốc. Rất tiếc những tu sĩ Trung Quốc thời xưa đã không thừa nhận loại Thiền (Chan, Zen) đây là một đỉnh cao trí tuệ riêng biệt của văn hóa Trung Quốc, để không bị các học giả đời sau thắc mắc về cội nguồn thực sự của nó!

Thin ca Thin tông

Rất nhiều sách, bài viết, uyên bác cao siêu giải thích về phương pháp thiền của thiền tông. Tuy nhiên, tất cả đều làm cho người đọc, khó hình dung được thực sự bản chất thiền của Thiền tông là gì! Người sơ tâm chẳng nên đi thẳng vào sách thiền của Thiền tông, một môn phái đặc thù và khác biệt so với đạo Phật truyền thống. Lý do là chữ “Thiền” của thiền tông mang nội dung gần như là xa lạ với chữ “Thiền” của các tông phái khác. Cũng nên biết rằng, khi một nhánh Phật giáo đại thừa phát triển thành Thiền tông Trung quốc, thì chữ thiền (Dhyana) của Đại thừa lại một lần nữa thay đổi với một nội dung khác.
Thiền của thiền tông không phải là thiền định, cũng không phải là thiền quán, không phải là jhana hay dhyana, thiền của Thiền tông cũng không hẳn là tọa thiền. Thiền của Thiền tông được cho là nhắm vào mục đích kiến tánh để đốn ngộ, cho nên phương pháp của nó là một đặc thù. Đây có thể là “quán công án” hoặc “khán thoại đầu”, cho nên nó có thể thực hiện ở bất cứ tư thế nào, hay ở bất cứ nơi đâu. Đây có thể là thủ pháp đánh và hét, mục đính làm cho người đệ tử bất ngờ hốt hoảng rơi vào trạng thái “mất hồn” đưa đến tình trạng vô ngã tạm thời. Đây có thể là cách quan sát sự vật của thế giới hiện tượng mà tránh để trí óc định danh các sự vật. Mục đích trong các phương pháp của Thiền tông là nhằm phá hủy các khái niệm và ngôn ngữ hình thức, vốn được cho rằng không thể chuyên chở được nội dung của thực tại, trái lại còn bóp méo thực tại tuyệt đối. Truyền thống này khiến ngôn ngữ của Thiền tông thường khó hiểu và lập dị đối với lí trí bình thường. Một khuynh hướng Thiền Trung Quốc nhấn mạnh vào khái niệm “sống trong hiện” tại đang được phổ biến nhiều ở Tây phương bởi các Đạo sư như  Krisnamurti, Eckhart Toll, Osho…tuy nhiên các Đạo sư không đưa ra một phương pháp rõ ràng nào để thực việc “sống trong hiện tại” này cả  (dường như  các đạo sư tin rằng chỉ cần dùng “ý chí cá nhân” là có thể sống trong hiện tại được!)

Thin ca Yoga và các giáo phái Bà La Môn khác

Đạo Phật xuất phát từ minh triết của Ấn độ. Thiền Định trong đạo Phật cũng đã bắt nguồn từ Yoga. Thời đó Yoga là một trong sáu phái triết học nổi tiếng của Ấn độ. Yoga có những tông phái thực hành thiền để đạt cứu cánh giải thoát (Giải thoát theo quan điểm Hindouism). Pantajali là người có công biên tập tất cả tài liệu về Yoga trong giai đoạn từ thế kỉ thứ 05 đến thế kỉ thứ 03 trước công nguyên. Bây giờ khi nói đến thiền, cũng có rất nhiều người liên tưởng đến những phương pháp Yoga. Ngoài yoga rèn luyện khí lực và cơ thể vật chất là Hatha yoga, còn có Yoga luyện tâm, đó là Rahja yoga. Rahja yoga quan niệm Vật chất không thể tách rời Ý thức hay ngược lại. Tâm và Vật là một thực tại thống nhất, không thể tách rời. Sự tiến hóa của tâm tất yếu phải đi liền với sự thay đổi khí lực tức năng lượng cơ thể và ngược lại. Từ Rajha yoga phát sinh rất nhiều kĩ thuật Yoga khác như: Kundalini yoga, Transcendental yoga, Kriya yoga v.v…Tất cả những phương pháp này có thể gọi là thiền của yoga.

- Pháp Luân Công một phong trào đang khởi dậy tại Trung Quốc cũng là một loại Thiền dựa trên sự luyện tập để phát triển Khí lực bên trong.

- Surat Shab yoga tức San Mat, một giáo phái bí mật (esoteric) thuộc về  Đạo Sikhism đang trở thành “hiện tượng” trong cộng đồng người Việt trong ba thập niên trở lại đây . Phong trào San Mat tại Việt Nam được phổ biến bởi Thanh Hải Vô Thượng sư (một phụ nữ Việt) còn gọi là master Ching Hai. Cũng giống như một số trừơng phái Thiền khác, không hiểu sao  Surat shab Yoga khi xuất hiện tại Việt Nam lại cố nhận mình là Đạo Phật! Giống như tất cả các loại thiền khác, Thiền Thanh Hải (pháp môn Quán Âm) chưa bao giờ biết phân biệt pháp của mình là thiền định hay thiền quán. Thiền Thanh Hải cũng chưa bao giờ biết về các dấu hiệu hay chuẩn mực của sự  đắc thiền. Thiền Thanh Hải, cũng giống như  các giáo phái Bà La Môn khác,  coi sự  chứng đắc “thiền định” cũng là chứng đắc “tối thượng”!

Thin ca Kim Cương thừa (Mt tông Pht giáo)

Mật tông Phật giáo bắt đầu ở Ấn độ, nhưng lại chỉ phát triển ở Tây Tạng, nên nói đến Mật tông Phật giáo là nói đến Mật tông Tây Tạng. Mật tông Tây Tạng chú trọng đến thiến quán hơn thiền định (có thể tham khảo cuốn Giải thoát trong lòng bàn tay của Papongka do sư cô Trí Hải dịch). Thiền của Mật tông hiển nhiên được phát triển trên nền minh triết của Yoga hình thành trước đó. Mật tông dùng thiền quán đối với Chơn ngôn (darani), Mandala, Linh phù (yantra), các vị hóa thần (Yidam). Một trong những đối tượng quán của thiền Mật tông là Kundalini. Có lẽ Kundalini yoga là của Yoga Ấn giáo hơn là của Mật tông Phật giáo! Mật tông dùng thiền quán về luồng hỏa xà Kundalini (tummo) làm một trong những phương tiện để chuyển hóa tâm thức. Sáu pháp của Naropa, đạo sư Mật tông, được gọi là sáu yogas (six yogas of Naropa). Đến đây ta thấy được mối quan hệ sâu sắc giữa Yoga và Mật tông. Và cũng thấy rằng thiền chỉ là phương tiện của nhiều con đường.

Thin ca Lão giáo


Lão tử
Còn gọi là thiền của Đạo gia, hoặc cũng có khi gọi thẳng là Đạo gia khí công. Vì sao lại có thể gọi thiền là khí công? Vì bản chất của khí công cũng là thiền quán trên một đối tượng cơ thể, đó là luồng khí lực. Thiền của Lão giáo nhắm vào khai thông các kinh huyệt chính như  Nhâm và Đốc, khai thông luồng hỏa hầu… Công phu thiền của Lão giáo đưa đến khai mở Huyền quan khiếu, thành tựu thánh thai… Ta thấy có sự tương đồng trùng khít giữa thiền của Lão giáo với thiền của Yoga hay thiền của Mật tông, trên một nguyên lý: Chuyển đổi của tâm phải bắt đầu bằng sự chuyển đổi khí lực của cơ thể. Dĩ nhiên đây không phải là chủ nghĩa duy vật mà chỉ là duy “Một”. Cái Một không thể tách rời thành hai “tâm” và “vật”.

Thiền là phương tiện thực hành của nhiều tôn giáo khác.

Thiền không hẳn là của riêng Thiền tông (Chan, Zen) hoặc của riêng đạo Phật hay Ấn giáo. Nhóm tôn giáo xuất phát từ  Cựu ước như Do Thái giáo, Hồi Giáo, Thiên chúa giáo hay nói tới từ “Mặc Khải”. Mặc khải (revelation) cũng chính là Thiền (meditation). Kinh Khải Huyền (Apocalypse) mô tả những cõi giới hoàn toàn tương ứng vơí một tam muội. Thánh Jean de la Croix cũng mô tả thể nghiệm tâm linh của mình (Ascension of Mount Carmel) giống như một hành giả thiền. Như vậy thiền cũng tồn tại trong khu vực của các tôn giáo Do thái, Hồi và Thiên Chúa, như một phương pháp tiếp cận Thượng Đế. Thiền là phương pháp thực hành tâm linh rất phổ quát. Cho nên một định nghĩa thiền hay một giải thích về thiền càng mang tính phổ quát càng dễ được cộng đồng tiếp thu. Dù có khác biệt về phương pháp và nội dung qua thời gian và khu vực văn hóa địa lý, nhưng mục đích của thiền thì không đổi. Để hiểu rõ thêm Thiền (meditation) là gì? Bạn có thể đặt thêm câu hỏi:

Thin không phi là gì?

Thin không hn là “Trong không vng ngoài không đng”

 
thiền động
Bên trong, tâm không vọng. Nhưng bên ngoài thì thân vẫn có thể động. Có rất nhiều loại thiền “động” như thiền hành, thiền quay tròn, thiền với những động tác đặc biệt (để khích động Kundalini chẳng hạn…). Osho trình bày nhiều về các loại thiền động (dynamic meditation). Thiền sinh có thể được dẫn đến trạng thái nhập thiền khi nhún nhảy hoặc lắc mạnh cơ thể theo nhịp điệu hoặc âm nhạc! Khi các bộ lạc nhảy múa hoặc các đồng cốt đong đưa cơ thể thì có lẽ tác dụng và hiệu ứng cũng nằm trong nguyên lý thiền động này. Tập trung nội quán, mà đối tượng quán là năm uẩn, chính là Vipassana, là phương pháp thiền quán của đạo phật nguyên thủy. Đối tượng quán của Vipassana là cơ thể vật chất, ý thức và cảm xúc, xảy ra trong cơ thể. Thiền có thể thực hiện trong tất cả các động tác! Thiền động là một khái niệm không thể phủ nhận. Dù khó có thể đi vào một định sâu, nhưng thiến động hình như rất có lợi cho người sơ tâm, muốn biết hương vị đầu tiên của thiền là gì! Không quên rằng: Thiền hành (đi chậm rãi trong chánh niệm) là phương pháp phổ biến trong thời Đức Phật, vẫn đang tiếp tục được thực hành trong Đạo Phật Nguyên Thủy.

Thin không phi ch là ngi thin

Đúng vậy, chỉ có Thiền Định (Samatha) là cần nhiều ở tư thế ngồi. Còn Thiền quán (Vipassana) thì không nhất thiết phải ngồi, trái lại còn được khuyến khích nên thực hiện trong cả tứ  oai nghi (đi, đứng, nằm, ngồi). Người thực hành có thể thể thiền trong cả bốn oai nghi đi, đứng, nằm ngồi, hoặc làm những động tác đặc biệt khác. Đặc biệt với Thiền tông (Thiền công án hoặc khán thoại đầu), thiền sinh có thể tham công án hoặc khán thoại đầu trong bất cứ hoàn cảnh hoặc tư thế nào. Thiền tông Trung quốc, với khẩu quyết “kiến tánh thành Phật”, cho nên thiền là làm thế nào để kiến tánh, chứ không phải gò ép trong tư thế ngồi! Theo quan điểm này, ngồi cũng được mà không ngồi cũng được. Thậm chí trong giai thoại Thiền tông, có một vị thiền sư “đắc đạo” trách một vị thiền sư thường ngồi nhưng chưa “đắc đạo”: Tại sao lúc sống cứ ngồi không nằm rồi lúc chết lại cứ nằm không ngồi! Các Thiền sư hay nói bóng gió “đi đứng nằm ngồi cũng là thiền”. Cách nói này gây ra hiểu lầm tai hại. Nhiều người sơ tâm tưởng rằng không cần phải xử dụng các phương pháp thiền, như thiền chỉ hay thiền quán, thiền động hay thiền tĩnh…Không cần phải tham công án hay khán thoại đầu, chỉ sống tự nhiên, đi đứng bình thường cũng… là thiền! Người có trải nghiệm sẽ biết rằng, trạng thái “đi đứng nằm ngồi cũng là thiền” là “kết quả” có được sau khi thành tựu, chứ không phải là “nguyên nhân” sinh khởi trạng thái thiền. Cũng như vậy “Sống trong hiện tại” là thành tựu, là kết quả, của việc nhập thiền chứ không phải là nguyên nhân hoặc là phương pháp để thực hành thiền (thiền tông Trung Quốc). Tóm lại “thiền không cần tọa thiền” chỉ là đặc điểm của một vài pháp môn giữa rất nhiều pháp môn.

Nhưng ngi thin vn là tư thế quen thuc và hiu qu nht:

Tư thế ngồì thoải mái vững chắc là điều kiện tốt để thiền (cả Thiền Định lẫn Thiền Quán). Đứng thì dễ vọng động (trạo cử). Nằm thì dễ buồn ngủ (hôn trầm). Những cơn định sâu và kéo dài bắt buộc phải thực hiện trong tư thế ngồi. Đức Phật đã từng nhập sâu vào thiền định với thời gian 45 ngày trong tư thế ngồi. Chỉ ở tư thế ngồi kiết già hoặc bán già, thiền sư mới không bị ngã (tới trước hay sau) khi nhập sâu vào thiền định. Đối với thiền tông, khi giữ được chính niệm một cách kiên cố, thiền sư  có thể đi, đứng, nằm, ngồi, trong trạng thái thiền. Tuy nhiên Đạo Phật nguyên thủy cần những bậc định “sâu” hơn (để dễ thực hành 16 tầng tuệ quán sau này), lúc đó ngồi nhất định là tư thế cần thiết. Cũng nên nói thêm, rằng tư thế ngồi chỉ cần vững vàng và thẳng lưng là đủ. Ngồi thiền không lệ thuộc các kiểu xếp của chân. Mọi chuyển biến của tâm xảy ra trên đầu chứ  không xảy ra ở hai chân.

Thin không là li đi tt

Đây là vấn đề còn mãi trong sự tranh luận về ý nghĩa giữa pháp môn Đốn (immediate) và pháp môn Tiệm (gradual). Thiền tông cho rằng pháp môn của mình là Đốn giáo, nghĩa là có thể dẫn môn sinh kiến tánh thành Phật rất nhanh. Đốn ngộ là ngộ rất đột ngột, thường được diễn đạt là “hốt nhiên đại ngộ”. Cũng trong lí luận đó, suy ra các pháp môn khác là Tiệm giáo, cần thời gian rất lâu dài để đi đến chứng đắc. Nói rằng “đốn”, nhưng mỗi con người, ai cũng đã từng tiến hóa qua bao nhiêu đời kiếp. Nói cách khác, luôn luôn đã có một quá trình chuẩn bị của đời này hay từ nhiều đời trước, trước khi đốn ngộ. Vậy thực có một sự kiện gọi là “đốn” hay không! Còn “đốn ngộ” là sơ ngộ hay đại ngộ. Nếu đốn ngộ là chứng đắc , (enlightenment), là thành tựu (siddhi), thì phải xem xét vấn đề quả vị (stage of attainment). Cái đích “Bồ tát” (Bodhisattva) trong Thiền tông cách xa với quả vị “A La Hán” (Arahanta) là bao nhiêu. “Kiến tánh thành Phật” là lúc sơ ngộ hay đại ngộ cũng thực sự  còn là một vấn đề. Thiển nghĩ, “thấy tánh” là mới biết ngõ vào thôi, còn “nhập tánh” thì mới thành Phật được Tương tự như vậy Mật tông hay Thiền tông cũng không phải là lối tu tắt như nhiều người thường nghĩ! Mượn lời nói của Osho: Một điều cần nhớ, rằng thiền là một chuyến đi dài, không có ngõ tắt. Ai nói rằng có lối đi tắt, tức người đó đã lừa dối bạn… Bởi vậy khi bắt đầu hành thiền, bạn đừng kì vọng gì quá mức. Nếu không kỳ vọng bạn sẽ không phải thất vọng. Thiền không phải là những mùa hoa sáu tháng một lần. Thiền là cây đại thụ phải cần thời gian để vươn rễ vào sâu lòng đất. Tôi cũng đồng ý với Osho như vậy. Thiền không có lối đi tắt. Tất cả đều phụ thuộc vào nghiệp, vào bộ gene của cơ thể, vào cấu trúc bẩm sinh của sinh lý thần kinh. Bạn nhập thiền dễ hơn người khác vì trước đó (kiếp trước) bạn đã từng thực tập nhiều rồi. Bạn thiền có được kết quả nhiều hay ít là vì bạn đã tiến hóa nhiều hay ít trên con đường tiến hóa của vũ trụ kể từ thủa ban sơ.

Tóm lại

Thiền gồm nhiều phương pháp và mang nhiều nội dung khác biệt. Nên hiểu Thiền như là phương tiện của nhiều tôn giáo, của nhiều pháp môn. Thiền có thể là “Thuật” bước vào Tâm. Thiền có thể là “Đạo” trong ý nghĩa tự thân của nó. Thiền có thể là cách tiếp cận với Chúa trời của một số các tôn giáo thần khải. Thiền có thể là cách điều khiển khí lực và năng lượng của Yoga trong mục đích chuyển hóa tâm linh. Thiền là “công cụ tâm linh” dùng để thám sát và tìm hiểu thế giới nội tâm cũng giống như  khoa học dùng các loại “công cụ khoa học” để thám sát thế giới bên ngoài.

Cuối cùng, nếu bạn là một Phật tử, phải nhớ rằng con đường tu hành của Đức Phật chính là pháp thực hành thiền (bhavana) gồm Thiền định (Samathabhavana)và Thiền quán (Vipassanabahavana), dù rằng những phương pháp này ngày nay không còn được các “Đạo Phật phát triển” nhắc đến. Thiền của Đức Phật Gautama có phương pháp rõ ràng còn có thể tham cứu trong tam tạng kinh điển. Thiền của Đức Phật Gautama có những tiêu chuẩn cho các tầng thiền, các quả vị, các tầng bậc chứng đắc, nhờ vậy hành giả có thể biết mình đang đi trên đạo lộ nào (đúng hay sai) và đang đứng tại đâu (mức độ nào). Nhờ sự minh bạch rõ ràng đó, những nổ lực của Phật tử  sẽ không bị hoài phí(xem thêm . . .).

Phạm Doãn

(25/10/2010)
MỜI CÁC BẠN ĐỌC THÊM bài SỐNG GIẢN ĐƠN AN LẠC 
                                                        TẠI SAO TÔI THÍCH SỐNG GIẢN ĐƠN 
                                                        SỐNG GIẢN ĐƠN. HỎI&ĐÁP

Thứ Hai, 27 tháng 12, 2010

Ván Cờ Sinh Tử

Minh Đc – Triu Tâm nh

Thanh niên Ka-jo-ju sau khi tht vng v đưng công danh, tình yêu, s nghip bèn tìm đến mt tu vin trên non cao và thưa vi Tu vin trưng:
- Thưa ngài! Con đã thy rõ b mt tht ca đi nên mong mun gii thoát khi nhng đau kh. Thế nhưng, con không có kh năng hành trì mt th gì lâu dài. Không bao gi con có th sng nhiu năm trong mt thin đnh, hc tp, gii lut hay cái gì nghiêm túc tương t như vây. Con s thi chí và rơi tr vào cuc đi, du biết rng mình không còn chu đng đưc. Quyên sinh là bin pháp hay nht, có l. Thưa ngài! Vy thì còn con đưng nào ngn nht, d dàng nht dành cho nhng k như con hay không?
- Có ch!
Tu vin trưng mt thoáng l lùng nhìn ngưi thanh niên ri tr li:
– Nếu con trung thc! Nhưng hãy cho ta biết là con đã hc nhng th gì? S trí ra sao? Có th có nhng kh năng như thế nào? Thng hoc, con thưng hay tp trung tâm ý nhiu nht vào chuyn gì?
Ka-jo-ju có v nghĩ ngi, sau đó, y th dài thưn thưt:
- Ôi! Thc s thì không có th gì! Con chưa nghĩ là mình phi nên như thế này hoc nên như thế n! V chăng, mc đích ca s hc cũng ch đưa đến hư vô và phù phiếm! Công danh, s nghip gia cuc đi này cũng ch là gic mng đu hôm. Hin gi gia đình con li khá gi nên con không cn phi làm vic. Riêng v s thích thì … tuyt, con thích đánh c nht! C đi, dưng như tâm trí con ch tp trung vào đó thôi. Trong vài cuc tranh gii gm nhng kỳ th già dn bn phương, thnh thong con cũng git đưc mt phn thưng ưu hng.
- Rt tt!
Tu vin trưng gt đu:
- Chưa đến ni phi b đi. Nhưng mà điu này mi tht là quan trng, con có nim tin nào nơi ta không ch?
- Con đã chn la.
- Thế nào?
- Ngài là Kiếm vương!
Thanh niên Ka-jo-ju cht nói ln:
- Li là Kỳ vương na. Ngài đã dùng sc mnh ca đo đc và trí tu đ thu phc nơi tu vin này nhng con nga hung hăng nht, nhng tay giang h kiêu ngo và bc hãnh nht. Không cn phi nói rng ngưi ta tín phc ngài như thế nào, ngài Tu vin trưng !
- Hi con, này Ka-jo-ju! Ta mun hiu cưng đ tín phc y riêng nơi con thôi.
Nghe gi đúng tên mình, Ka-jo-ju rúng đng c châu thân. Bt giác, thanh niên đưa mt nhìn Tu vin trưng, và y cm thy mt sc thu hút kỳ l không cưng đưc.
Ka-jo-ju gt:
- Tín phc. Con hoàn toàn tín phc.
Tu vin trưng chm rãi quay qua bo th gi:
- Vy hãy cho gi tu sĩ Mu-ju đến đây cùng vi bàn c ca y.
Ngưi đưc gi là mt tu sĩ tr, rt tr, vóc ngưi tm thưc, dáng dp nho nhã, khuôn mt sáng r, tròn trn đy phúc hu.
-Mu-ju con!
-Bch thy, con nghe.
-Bao nhiêu năm con theo thy hc đo. Con mi cơm, ta ăn. Ta gi, con d. Ta giy c, con cuc đt … Tình thy trò gia chúng ta tht không có gì đáng phi phàn nàn c ch?
- D, qu thế tht.
- Ta còn mun hi rõ hơn na. T trưc đến nay, con không h my may nghi ng gì nơi ta đy ch?
- Phi nói ngưc li, bch thy – ging tu sĩ tr cht như viên đá nng ngàn cân – phi nói là con tuân phc thy mt cách tuyt đi.
- Rt tt! Vy này Mu-ju! Ngây bay gi ta yêu cu con s tuân phc “Kim cương bt hoi” đó.
- Xin vâng.
Tu vin trưng – chính là thin sư Dai-so-kim - cht đng dy, bưc ti bc tưng phía đông. đó có treo 1 thanh kiếm c, v nm bc khm xà c, nhưng tuế nguyt đã ph lên đy môt lp bi đc. Gn na thế k nay, ngài không đng đến thanh kiếm y. Cái thi Kiếm vương trai tráng oanh lit dưng như mi hôm qua đây thôi. Ngài thò tay. Mt tiếng đng kh vang lên. Kiếm đã ra khi v. Mũi kiếm sc lnh ngi ánh thép xanh biếc.
Thin-sư Dai-so-kim quay li, đng thng như mt cõi tùng gân guc.
- Này Mu-ju ! Ngài nói chm rãi – Con hãy chơi c vi chàng thanh niên này. Và nghe đây ! Nếu con thua, ta s chém đu con. Nhưng ta ha là con s đưc tái sanh vào mt cõi lc phúc. Nếu con thng, ta s chém đu chàng thanh niên. Sut đi anh ta mê mi ham thích trò chơi đó, nếu đ thua thì chém đu y chng oan tí nào.
Hai ngưi lnh toát sng lưng nhìn Tu vin trưng, và trong thoáng giây đó, h hiu rng ngài nói tht.
Thanh niên Ka-jo-ju đng trân, bt đng, loáng thoáng theo hơi gió but lnh câu nói xa xưa ca Kiếm vương: “Ta ít khi rút kiếm ra khi bao, rút ra là phi chém!” Bt giác, thanh niên đưa tay s lên c mình, m hôi lm tm, gai lnh. Tu sĩ Mu-ju ch thoáng mt giây s hãi như tí gn trên mt h ri mt. Trn đi bng vào đc tin tuyt đi nơi đc Thy, nên vic giao phó đnh mnh không phi là điu đáng suy nghĩ lâu.
Gia thin đưng, lư trm nghi ngút. Cơn gió lnh lo lùa qua liếp ca . Thin sư Dai-so-kim ngi xung sau làn khói lung linh m o, tay nm cht đc kiếm trnh trng vi phong đ ca mt bc tôn sư. Không khí đng li, trang nghiêm và tĩnh mch đến ghê ngưi.
C hai hoàn toàn b khiếp phc.
H bt đu bưc vào ván c sinh t.
Ván c không còn là trò chơi na. Là cái gì nghiêm trng nht trên đi này. Ván c chính là cuc đi . Ván c chính là sinh t. Và c hai hoàn toàn tp trung tâm ý vào đó không mt my may dám xao lãng.
Ch vài nưc khi đu, thanh niên đã sm hiu mình đang đi đương vi mt đch th kỳ tài và già dn. Tu sĩ tr li un đúc trm tĩnh ca thin môn. Đó là nhng yếu t đáng ngi. M hôi t trán chàng thanh niên chy dài xung ngc. Tu sĩ Mu-ju đã chiếm ưu thế mt ri. Và như là mt lão nga t tin, sung sc – ch cn si tng bưc đu đn gi khong cách đu nga.
Chiến thng ch còn là thi gian.
Ka-jo-ju quên ngoi cnh, quên bn thân, quên c vic sng chết. Ngay giây phút này – tình yêu, công danh, s nghip, ưu hn – là nhng đám mây đen b xua tan mt cách nhanh chóng. Tâm trí Ka-jo-ju hoàn toàn chú mc vào cái đam mê duy nht ca đi mình. Phong đ, sinh lc, thin xo, s thông minh d dàng tr li vi chàng. Thế là Ka-jo-ju khôn khéo g tng thế mt. Tuy nhiên, tu sĩ Mu-ju vn tranh tiên. Rt chm, vng chãi, tng bưc vây hãm thành trì, không mt sơ h ti thiu đ cho chàng thanh niên lp li thế quân bình.
Đt nhiên, thanh niên Ka-jo-ju b th, b c thành trì, huy sinh quân mã, tung nhng đòn chp git. Lp chết, lp khác xông lên vi khí thế quyết t. Ly công làm th là chiến thut bình thưng, nhưng s hi sinh quá đt ngt, liu lĩnh và táo bo như vy thì qu là Mu-ju mi thy ln đu. Đến lưt tu sĩ tr toát m hôi, tng git, tng git r xung bàn c. Ka-jo-ju ch ch có thế. Ch cn mt thoáng bi ri lưng l ca đi th là y chém đông chém tây nhng thế táo bo – nhưng ch là hư chiêu – ri rút v an toàn, bình chân như vi.
- Đ t vây Ngy, cu Triu, hao tn tâm cơ là ch mong cái thế bo toàn – Ka-jo-ju th phào nói – Tht ra, nếu đ t không tht vng tình đi thì không đi nhng thế tuyt mng như vy. Vì t bi, vì trung hu và chơn cht mà tiu sư ph mt thế thượng phong. Hin gi tiu sư ph du hơn quan nhưng chuyn thng bi khó biết phn ai.
Li dng khi quân mã tu sĩ đang tn mn đó đây, thanh niên kéo đôi pháo giăng v gi trung quân. Binh lính và nga ngăn ven sông. Mt xa cht đông, cht tây, cht tn, cht thoái xông xáo gia chn thiên binh vn mã.
Tu sĩ tr bt đu thy mình yếu thế. T tin mt thoáng lay đng là phía t tin b viên h tướng ca đch phá v. Lão nga già ca đi phương đươc hai cht h v cht ch, hm sn đã lâu, bây gi hung hăng nhy đến thí mng. Thế là đôi pháo bt khut kiên cường ca tu sĩ b loi khi vòng chiến.
Mu-ju đã rơi vào thế th. Thnh thong vn đánh tr nhng đòn đy trm tĩnh và ni lc nhưng thanh niên vn đón đ d dàng. Vào phút bt ng nht, thanh niên Ka-jo-ju tung quân d b. Hai pháo gi nhà đng lot vt qua sông, tung đòn ti hu.
Tu sĩ đã nguy cơ thp t nht sinh.
Thanh niên len lén đưa mt nhìn v sư. Đy là mt khuôn mt trong sáng đy trí tu do bao năm tinh cn gii lut. Ôi! Mt dung dp tht đp trong mt tinh thn cao khiết. Thanh niên nghĩ. V tu sĩ này t hoà và đôn hu hết mc, mang linh hn trong sáng như viên ngc không vết tì nhim. Ôi! Đâu có có hc ám, bi bm, hiếu chiến, táo tn và đa sát cuc đi như ta? Ôi! Mt nhân cách như vy mà b kết liu cuc đi tht ung lm thay! Ta là gì ? Mt k du th du thc, vô tích s, ăn bám m cha va xã hi; nếp sng dơ dáy, hư hng, ni tâm đy ry nhng ham mun bt chánh và hèn h. Giá tr đi ta ch có thế thôi . Rơm rác còn có ích hơn ta.
Thanh niên nhè nh th dài. Và lòng t bi khi lên du dàng xâm chiếm lòng chàng. Ôi! Cuc đi vô giá tr ca ta nên hi sinh cho cuc đi có giá tr.
Nghĩ thế xong, thanh niên khôn khéo to nhng sơ h kín đáo, ch nhng kì th tr danh mi biết được. Mt thế, hai thế. Vy là quá đ cho tu sĩ ly li thế quân bình ri chiếm luôn ưu thế tn công.
Thanh niên Ka-jo-hu biết mình s thua, lát na thôi, nhưng chàng không đ m hôi, không lnh lưng, không lnh gáy. Mt an tĩnh mênh mông, thân thiết vây ph tâm hn chàng. Chưa bao gi mà chàng chi đi cái thua – nghĩa là ch đi cái chết – mt cách du dàng, trong sáng, bình lng và thanh khiết như vy.
Tu sĩ tr ngn ngi. Ngón tay va thò xung quân c đnh mnh, vi rút lui. Cũng vì lòng t bi mà tu sĩ không n h th.
Bàn c bt đng gia hai người.
Đi vi nhng tay c ưu hng, không có thế cui cùng, Ka-jo-ju hiu vy, và vì đã nguyn hi sinh, bèn thò tay xung …
Bng mt làn khí lnh lướt qua. Tu sĩ Mu-ju thoáng thy thin sư Dai-so-kim đng dy chp chn sau làn khói hương. Và mt tia chp ph chp xung đu chàng thanh niên. Tu sĩ nhm mt li, kh tuyên Pht hiu …
Thin đường lng ngt như t. Tu sĩ tr đnh thn m mt ra. Mt y cht tròn vo, kinh ngc. Cái đu vi tóc tai ri bù ca chàng thanh niên đã b co nhn thín. Và ging thin sư Dai-so-kim trm m, mn mt bên tai:
- Ch cn có hai điu, Ka-jo-ju con hi ! y là s tp trung tâm ý hoàn toàn và lòng t bi. Hai yếu t quan trng ca Đo Giác ng. Thế mà hôm nay con hc được c hai. Con đã tp trung tâm ý có hiu qu vào ván c. Sau đó vì lòng t bi mà con nguyn hi sinh mng sng cua mình. Thôi, hãy li đây, áp dng k lut ca chúng ta trong tinh thn đó. Gii thoát s là kết qu đương nhiên như mũi tên đến tiêu đim theo đường nhm trúng.
Thanh niên Ka-jo-ju đưa tay s lên đu mình, chàng mm cười.
Sưu tm t internet
mời đọc thêm SỐNG GIẢN ĐƠN AN LẠC