Thứ Hai, 1 tháng 9, 2014

Câu nói đùa độc hại: “ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật”

Paulle



Tôi đoán chừng câu “ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật” xuất hiện trong thời gian sau chiến tranh thế giới lần thứ hai và trước khi dất nước bị chia đôi. Thời còn trẻ tôi cũng đã từng hả hê nói câu này vì tôi cho là nó hay. Sau này tôi dần dần cảm thấy đây là câu nói rất vớ vẫn. Tôi còn cho là nó phản văn hoá, phản dân tộc và chất chứa nhiều tác hại ngấm ngầm.
Nói về ăn cơm Tàu. Trước năm 1975 ở miền Bắc chắc không có quán ăn Tàu vì kinh doanh tư nhân bị cấm. Trong khi đó tại miền Nam, thành phố nhỏ nào cũng có phố Tàu phồn thịnh với tiệm buôn, quán ăn, tiệm thuốc bắc, trường học, hội quán… Tại các tỉnh miền Trung dù người Tàu không nhiều như trong Nam nhưng hầu hết quán ăn có bảng hiệu, thực đơn, bàn ghế, nhân viên, và được trang trí đàng hoàng đều bán thức ăn Tàu và do người Tàu làm chủ. Mỗi thành phố chỉ có một hai quán ăn chuyên nghiệp do người Việt làm chủ với thực đơn: Tây, Ấn, Ta lẫn lộn. Có nhiều người Việt gánh đồ ăn đi bán rong. Quán ăn Việt theo dạng bình dân không phục vụ chuyên nghiệp cũng có, nhưng thường chỉ bán vài ba món chuyên trị: cháo, phở, bún, cơm đĩa, thịt cầy (lúc ấy, người Phật tử gốc Bắc và người Trung, Nam chưa biết ăn “cây còn”).
Theo Hồi ký Phạm Duy, vào năm 1908, cha của ông cùng học giả Nguyễn Văn Vĩnh mỡ quán ăn Việt Nam đầu tiên tại Hà Nội nhằm khuyến khích người Việt vùng lên làm kinh doanh và để cạnh tranh với người Tàu giành lại quyền làm chủ nước nhà cùng với chủ trương: phải kinh doanh mới có cơ hội làm giàu và giàu mới làm được việc lớn dễ dàng. Cộng đồng Tàu ở Hà Nội đã bị rúng động, họ lo sợ người Việt sẽ có cơ hội vượt qua sự kiềm chế kinh tế của họ. Bởi vậy, họ đã cùng nhau tuyên tuyền, nói xấu và mướn đám du côn người Việt phá phách, gây rối, ngăn chận khách; đồng thời họ vận động vài chính khách Pháp, Việt gây khó dễ cho tiệm cùng cá nhân của 2 ông chủ Việt trong thời gian mới khai trương.
Ngày xưa, đi ăn tiệm Tây phải sành điệu phong cách ăn uống theo kiểu quí tộc Tây: ngồi ăn, kêu đồ ăn, gọi bồi bàn, nhai đồ ăn, cầm muỗng nĩa đúng kiểu (cầm lên phải đúng tay, bỏ xuống phải đúng bên, ăn xong bửa ăn phải để đúng cách cho bồi bàn hiểu ý, và phải biết cầm muỗng nào cho món ăn nào), cầm dao cắt cầm cắt phải đúng thế để tránh làm văng miếng thịt, miếng bít tết xuống đất… Ôi, đủ chuyện rắc rối. Không muốn ăn cơm Tây thì chỉ còn cách ăn cơm Tàu, chứ cơm Việt còn nằm chủ yếu ở bếp nhà.
Thời ấy, dân nghèo ở quê, ở tỉnh đến Hà Nội hay Sài Gòn là tưởng mình bị lạc vào thiên đàng, thấy nhà lầu 3-4 tầng là nhìn hoài đến nỗi đạp bể bánh tráng của người ta. Trình độ dân trí thấp (mù chữ) đến nỗi mỗi trạm xe điện phải có hình con cua, con cò, con cá… để cho người mình dễ nhớ. Nghèo, quê quá mà, nên tới thập niên 50-60 vẫn còn hiếm khách Việt bình dân đi quán ăn Tàu. Những năm đầu thập niên 70 mới có tương đối nhiều khách Việt trong các nhà hàng Tàu ở Chợ Lớn. Tiệm Tàu mở ra phục vụ cho người ngoại quốc, cho một nhóm nhỏ người Việt và cho cộng đồng người Tàu giàu có. Bởi vậy, có thể nói đa số chỉ nghe nói và mơ ước thôi chứ việc lo gạo đủ ăn quanh năm cho cả một bầy con đông đã là việc mà hầu hết mọi gia đình Việt Nam vào thời buổi xa xưa ấy đã không dễ gì thực hiện nổi, nói chi đến việc có quần áo tươm tất hay có dư tiền để đi ăn tiệm.
Vậy, “ăn cơm Tàu” ở đây có thể chỉ phản ảnh cái ước mơ của khoảng 98-99% dân số vào thời ấy: mơ được ăn cho biết ra sao, cho thoả mãn cái giấc mơ được ăn cơm tiệm. Tương tự, thời ấy ai cũng mơ được ngủ một đêm ở khách sạn để nếm thử cái mùi sang trọng và hiện đại của Tây; ai cũng muốn có cơ hội nếm thử miếng fromage hay ngụm rượu champagne… Chứ nó không mang ý nghĩa: cơm Tàu ngon hơn cơm Việt.
Nhờ có nghề buôn bán nên người Tàu có suy nghĩ sâu xa và đa mưu. Lúc tôi còn bé đã có dịp chứng kiến những trò bịp bợm của người Tàu trên toàn miền Nam như vụ đan màn hay rèm che bằng những cọng nhựa và vụ nuôi chim cút. Trong vụ nuôi chim, cộng đồng Tàu còn mua chuộc tiến sĩ và nhà báo viết bài kêu gọi mọi người dốc tiền tham gia. Ông tiến sĩ Việt “gian” còn có bài nghiên cứu khẳng định trứng chim cút bổ dưỡng vô cùng, có thể trị bá bệnh và đúng là tiên dược mới được khoa học khám phá… Nói chung, cái câu vớ vẫn “ăn cơm tàu….” chắc chắc là cái quảng cáo độc đáo nhất, ưu ái nhất, vinh dự nhất trên thế giới dành cho thức ăn Tàu. Cũng có thể vì thấy người Việt ngây thơ và dễ bị dụ, vì người Việt thường hay lơ là với bản sắc riêng của dân tộc, cũng như quyền làm chủ đất nước nên chính người Tàu đã vẽ ra câu này. Có thể lắm chứ!
*
Ở nhà Tây? Thời thuộc địa, đa số nhà của người Việt là nhà tranh, vách đất và nền đất. Trong khi người Tây nhập cảng nguyên liệu để xây nhà theo kiểu như bên châu Âu: bằng gạch hay đá và xi măng. Vật liệu xây dựng nhà của họ cho phép ngôi nhà có tuổi thọ lâu hàng trăm năm và nó có khả năng chống đỡ tốt mọi thiên tai. Theo tôi, ước mơ ở nhà Tây là ước mơ rất thực tế và đích đáng nhưng có lẽ nó chỉ nói lên sự thèm thuồng có đủ tiền để mua vật liệu rồi xây ngôi nhà bền vững không sợ gì bão lụt lớn.
Lấy vợ Nhật? Tôi chưa từng nghe có phong trào lấy vợ Nhật. Chưa nghe nói phụ nữ Nhật đến Việt nam để tìm chồng hay họ mê đàn ông Việt. Chưa nghe có một hiệp hội nghiên cứu hay một cơ quan quốc tế nào tuyên bố: vợ Nhật là nhất và nhất về phương diện gì. Dĩ nhiên, tôi không đủ già để chứng kiến những việc của 60-70 năm trước, nhưng tôi tin chắc “lấy vợ Nhật là nhất” chỉ có giá trị tán dốc. Nếu ai nói, đàn bà Nhật chìu chồng hơn đàn bà Việt thì tôi có thể đồng ý, nhưng bảo phụ nữ Nhật nấu cơm ngon hơn phụ nữ Việt thì tôi không thể bằng lòng được. Cách đây 60-70 năm, thông tin và sự liên lạc với thế giới bên ngoài còn bị hạn chế lắm, nên lúc ấy ta biết rất ít về người Nhật và nước Nhật. Số người Việt tham gia phong trào Đông Du cũng chưa đủ nhiều thì bị Nhật cấm đoán, trục xuất. Nói chung, vào thời tiền chiến con số người Việt có hiểu biết sâu xa về nước Nhật rất rất là ít ỏi.
*

Chuyện gì cũng vậy, nếu không có thật mà cứ nói hoài thì sẽ có lúc thế hệ sau cho là có thật. Và khi đã được xếp vào danh mục ngạn ngữ/thành ngữ được lưu truyền từ đời trước thì tự động người ta chấp nhận nó một cách máy móc: không cần phải thắc mắc về xuất xứ hay cái ý nghĩa thật sự có lành mạnh hay không của nó. Bởi vậy nên mới có chuyện nhiều trí thức, nhà văn, nhà báo… vô tư nói cái câu ấy cho vui miệng chứ không ý thức là họ đang nói sai.
Ngày xưa, muốn đi ăn tiệm chỉ có cơm Tàu, ngày nay ta có vô số chọn lựa: cơm Ý, cơm Mễ, cơm Lì, cơm Ấn, cơm Hàn, cơm Thái, cơm Tàu, cơm Nhật… Nhưng cơm tiệm thường chỉ ngon nếu thỉnh thoảng ăn, chứ ăn liên tục thì ta sẽ bị ớn liền. Khi ra nước ngoài sống, 99% dân di trú phải mất nhiều năm trời mới có thể thích nghi được với thức ăn của người bản xứ. Tuy nhiên, bữa cơm ở nhà do mẹ hay vợ nấu vẫn luôn là bữa cơm ngon nhất.
Nhà ở là sản phẩm vật chất và sản phẩm vật chất là kết quả của khoa học kỹ thuật, kết quả của sự sáng tạo và sự văn minh. Sản phẩm vật chất không phải là sở hữu của một dân tộc nào cả. Nó luôn thay đổi theo thời gian và mọi dân tộc đều vui vẽ đón nhận những sản phẩm mới. Khi có điều kiện đầy đủ thì bất cứ một cá nhân nào cũng có thể tạo ra một ngôi nhà lý tưởng. Nói “ở nhà Tây là nhất” không còn đúng với ngày nay nhưng không có hại gì.
Nói “Lấy vợ Nhật là tuyệt vời nhất.” là chà đạp lên danh dự và phẩm chất của người mẹ, người phụ nữ Việt nam nói riêng, dân tộc Việt nam nói chung. Đúng vậy! Tại sao không là mẹ, vợ, chị hay em gái mình là nhất! Mà là phụ nữ thuộc giống dân khác – Không hề gặp hay biết gì về họ ngoài sự nghe phong phanh và đoán chừng là họ rất đảm đang, rất chìu chồng. Ngày xưa phụ nữ Nhật rất chìu chồng nhưng vẫn thua xa phụ nữ ở các nước Trung Đông và châu Phi vì thường thường người vợ lớn cưới thêm vợ trẻ mới cho chồng, có khi cưới thêm cho tới khi đủ 4 cô vợ trẻ.
Nhiều người hay so sánh giữa hai dân tộc hay hai nền văn hoá để thoả mãn niềm kiêu hãnh dân tộc của mình. Ở các nước khác chắc chắn vẫn có những người có tính này khi họ tán dốc hay nói chuyện với bạn bè. Dĩ nhiên, họ cho là dân tộc họ ngon lành nhất và họ có thể vô tư chê bai các dân tộc khác. À, chê người khen ta chứ không phải khen người chê ta! Bởi vậy, rõ ràng cái câu nói bất hủ của ta rất là ngược đời và rất là bậy. Và bậy bạ hơn nữa khi có nhiều người lầm tưởng nó là một ngạn ngữ.

 http://songtra.wordpress.com/

Không có nhận xét nào: