lời khuyên dành cho tuổi xế chiều.
lè phè sớm khỏe sớm. Sinh ra đã có 3 người bạn đồnh hành: Già, bệnh và Tử. Vậy còn ham hố làm gì? Miễn đừng làm phiền ai khác ... 😆
Chỉ biết đau khổ thôi thì không đủ. Cuộc sống tuy đáng sợ những cũng có cả tuyệt vời ... Làm thế nào tôi có thể mỉm cười khi lòng tôi tràn ngập nỗi buồn? Đó là tự nhiên thôi - Bạn cần phải mỉm cười với nỗi buồn của mình bởi vì bạn đâu phải chỉ là nỗi buồn ấy. Thich Nhat Hanh
Hiển thị các bài đăng có nhãn SỐNG GIẢN ĐƠN - AN LẠC. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn SỐNG GIẢN ĐƠN - AN LẠC. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Ba, 26 tháng 2, 2019
Chủ Nhật, 21 tháng 12, 2014
Tâm Bồ-đề
Pema Chưdrưn
Tâm Bồ-đề, Bodhicitta, trong đạo Phật cũng còn có
nghĩa là một tâm hoàn toàn rộng mở. “Citta” có nghĩa là tâm, và “bodhi” có nghĩa
là giác ngộ.
Con đường phát triển tâm Bồ-đề là một hành trình cá nhân của mỗi chúng ta.
Con đường ấy cũng chính là cuộc đời mà ta đang có, một hành trình trên con đường
giác ngộ. Nhưng giác ngộ không phải là những gì ta đạt được sau khi nghe những
lời hướng dẫn và thực hành đúng. Thật ra, trong vấn đề giác ngộ ta không thể
nào “thực hành đúng”!
Trên hành trình ấy, ta đi về một hướng mà mình không biết rõ, và nơi đó ta cũng
không thể xác định chắc chắn. Chúng ta chỉ biết tập cho mình có một cái nhìn mới,
biết cảm nhận thực tại một cách cởi mở và uyển chuyển hơn. Phát triển tâm bồ-đề là
một phương cách giúp ta thực hiện được điều ấy. Và chúng ta có thể bắt đầu bằng
cách tiếp xúc trực tiếp với những gì đang có mặt, bằng cách nhận diện những cảm
xúc của mình.
Tâm Bồ-đề thường có mặt những khi ta cảm thấy an tĩnh và hạnh phúc,
khi ta biết thương yêu, dù bất cứ dưới một hình thái nào. Trong mỗi giây phút
an lạc là tâm bồ-đề có mặt. Và nếu ta biết nhận diện và trân quý những giây
phút ấy, cho dù nó có ngắn ngủi hoặc mỏng manh đến đâu, tâm thương yêu cũng sẽ
từ từ nới rộng ra theo thời gian. Khả năng thương yêu của ta có một năng lượng
rất lớn, nếu biết nuôi dưỡng và tưới tẩm, nó sẽ lớn rộng ra đến vô cùng tận.
Và tâm bồ-đề không chỉ hiện hữu khi ta cảm thấy an tĩnh mà thôi, thật
ra nó cũng có mặt trong những lúc ta cảm thấy tức giận, ghen ghét, ganh tỵ hoặc
trong những lúc bất mãn sâu xa. Ngay giữa những cảm xúc tiêu cực và đau đớn nhất,
ta cũng vẫn có thể tiếp xúc được với tâm bồ-đề của mình, nếu ta biết
tiếp nhận chúng với một con tim rộng mở và ý thức rằng đó là một khổ đau chung.
Chúng ta đều cùng chia sẻ với nhau một nỗi khó khăn ấy, khổ đau này không phải
là của riêng ai.
Ngay giữa một hoàn cảnh khốn khó nhất, ta vẫn có thể nghĩ đến những người đang
cùng một cảnh ngộ như mình, và cầu mong cho tất cả được an vui, được thoát ra
khỏi khổ đau. Và mỗi khi ta tiếp xúc với cảm xúc ấy, những bức tường chia cách
giữa ta và người chung quanh sẽ tự động tan biến mất.
Trên đảo Cape Breton, nơi tôi ở tại Nova Scotia, vào mùa đông những mặt
hồ đều bị đông cứng. Nó cứng chắc đến nỗi người ta có thể lái xe hơi hay xe tải
chạy lên trên đó. Nhà phát minh ra điện thoại là ôngAlexander Graham Bell khi
xưa cũng đã cất cánh phi cơ của ông trên mặt hồ ấy. Nó đông cứng đến như vậy.
Và tôi liên tưởng đến những thói quen, tập quán của chúng ta, dường như chúng
cũng đông đặc giống như mặt nước đá ấy. Nhưng khi mùa xuân đến, những tảng băng
đá đó sẽ tan chảy. Tính chất của nước muôn đời vẫn vậy, chưa bao giờ bị hư hao
hoặc mất đi, cho dù là đang ở giữa một mùa đông dài vô tận. Nó chỉ thay đổi
hình tướng mà thôi. Và khi tảng băng tan ra, tính chất mầu nhiệm nuôi dưỡng sự
sống của nước lại có mặt.
Bản chất bao dung và rộng mở của một tâm bồ-đề cũng tương tự như thế.
Nó bao giờ cũng có mặt nơi này, cho dù lúc ấy ta có cảm tưởng như tình thương của
mình hoàn toàn bị khô cằn hoặc chai đá, dường như mình có thể đáp được cả một
chiếc phi cơ lên trên ấy!
Những khi tôi cảm thấy tâm hồn mình như đang ở giữa một mùa đông dài tăm tối,
và dường như không gì có thể làm cho nó tan chảy được, tôi chợt nhớ lại hình ảnh
này và biết rằng, cho dù tảng băng có đông cứng đến đâu, dòng nước thương yêu vẫn
không hề bị khô cạn hay mất đi. Nó lúc nào cũng hiện hữu. Và trong những giây
phút ấy, tôi ý thức được tâm bồ-đề của mình vẫn đang có mặt, dầu là
trong một dạng đông cứng và bất động.
Tôi biết rằng, mình có thể làm tan chảy trạng thái đông đặc ấy bằng hơi ấm của
tâm từ. Và phương cách hay nhất là ta hãy tưởng nhớ đến một người nào mình
thương mến, thân thiết hoặc biết ơn. Có nghĩa là ta khơi dậy năng lượng ấm áp
đang sẵn có trong ta. Nếu như ta không nghĩ ra được một người nào thì ta có thể
nghĩ đến một hoàn cảnh nào đó, hoặc một loại hoa lá nào mà ta ưa thích chẳng hạn.
Đạo sư Trungpa Rinpochethường nói: “Tất cả mọi người, ai cũng có ưa thích
một cái gì đó. Cho dù đó có thể chỉ là một ổ bánh mì.” Ý ông muốn nói, ta hãy
tiếp xúc với niềm vui sẵn có trong ta và nuôi dưỡng nó.
Hãy nghĩ đến một người hay một hoàn cảnh nào có thể tự động khơi dậy tâm từ
trong ta. Tâm từ là ý muốn đem niềm vui đến cho người khác và giúp họ vơi bớt
khổ đau. Đó không phải là lòng thương hại hoặc một thứ tình cảm máy móc, nhưng
được phát xuất từ cảm nhận rằng tất cả chúng ta đều cùng chung một hoàn cảnh
như nhau.
Tâm từ là một mối quan hệ bình đẳng. Vì vậy, những khi nào cảm thấy như mình bị
đông cứng, bạn hãy tiếp xúc với tình thương ấy đang sẵn có trong ta – cảm xúc đối
với người nghèo khó, đớn đau vì bệnh tật, với những người thân, hoặc với bất cứ
ai ở nơi nào – hãy để cho điều đó làm tan chảy những tảng băng đông cứng và mở
rộng con tim mình ra.
Tình thương cũng giống như những yếu điểm trên một bức tường thành kiên cố của
cái ngã. Và chúng ta nên tấn công vào những chỗ hở ấy. Nếu ta chỉ tiếp xúc
được với tâm từ trong một giây ngắn ngủi thôi, điều đó cũng sẽ khiến cho khổ
đau của ta được mềm ra, và khả năng hạnh phúc sẽ được tăng trưởng thêm một
chút. Và ngay trong giây phút ấy ta tiếp xúc được với tâm bồ-đề.
Khi tôi còn nhỏ, tôi có xem những truyện tranh về một nhân vật tên là Popeye.
Bình thường thì ông ta rất yếu ớt, và có nhiều khi bị người khác hiếp đáp, đe
doạ. Những lúc ấy ông ta lấy hộp rau spinach ra và nuốt trọn hết. Ông
chỉ cần mở nắp hộp ra và đổ hết vào miệng rồi, đùng một cái, ông trở thành một
người đầy tự tin và sức mạnh vô địch để đối phó với bất cứ đối thủ nào.
Khi chúng ta dùng những cảm xúc thương yêu để tiếp xúc với tâm bồ-đề thì
việc ấy cũng xảy ra với chính ta! Tâm bồ đề cũng giống như rau spinach của
tâm linh vậy. Nhưng xin các bạn đừng nói lại với ai là tôi đã ví dụ như vậy
nhé!
Thứ Năm, 18 tháng 12, 2014
Một câu hỏi đúng
Clark Strand
Có lần, một người du sĩ tên là Vacchagotta đến gặp
Phật và hỏi: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi chết một người đã giác ngộ và giải
thoát sẽ đi về đâu?” Nhưng dù cho anh ta có cố đặt câu hỏi cách nào đi chăng nữa,
đức Phật vẫn giải thích rằng câu hỏi của anh không đúng vì không thích hợp.
Sau cùng, đức Phật bảo anh ta: “Này Vaccha, hãy nhặt những que củi nhỏ
quanh đây và nhóm lửa lên.” Anh ta nhặt các que củi lại và đốt lửa. Đức Phật lại
nói: “Hãy bỏ thêm củi vào!” Anh ta làm theo lời Phật dạy.
Đức Phật hỏi: “Thế nào rồi?” Vacchagotta đáp: “Dạ, lửa cháy rất tốt.”
Đức Phật lại bảo: “Thôi đừng bỏ thêm củi vào nữa.” Sau đó đám lửa lụi tàn dần.
Đức Phật hỏi: “Thế nào rồi?” “Dạ, đám lửa đã tàn.” Đức Phật hỏi: “Nếu bây giờ
có người hỏi anh rằng ngọn lửa tắt rồi đi về ngã nào? Hướng đông hay hướng tây,
nam hay bắc? Đi tới trước hay phía sau? Trái hay phải? Lên hay xuống? Vaccha sẽ
giải đáp thế nào?”
– “Câu hỏi đặt như thế không đúng, thưa Ngài, bởi vì lửa cháy do nhiên liệu, cỏ
và cây khô. Khi nhiên liệu hết, không còn gì nuôi ngọn lửa nữa, ta nói rằng ngọn
lửa tắt.” Vacchagotta đáp.
– Cũng đúng như vậy, đó cũng là điều sẽ xảy ra cho người đã giải thoát sau khi
mất. Cũng giống như ta bứng gốc một cây kè và không còn gì có thể đâm chồi lên
nữa, nó chết hẳn.”
Và đức Phật kết luận: “Này Vaccha, người ấy đã vứt bỏ được cái gọi là thân
này rồi, không thể đo lường được, thật siêu việt, mênh mông như biển lớn. Nói rằng
vị ấy tái sanh là không đúng. Nói rằng vị ấy không tái sanh cũng không đúng. Mà
nói rằng vị ấy không tái sanh cũng không không tái sanh cũng không đúng.”
Nghe những lời ấy xong, Vacchagotta cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Anh
nói những lời Phật dạy như một ngọn đuốc soi sáng một căn phòng tối, và anh
nguyện sẽ nương tựa vào tuệ giác ấy suốt cuộc đời mình.
Đó là ngày xưa. Còn bây giờ là ngày nay. Nhưng điều ngạc nhiên là cả hai cũng
không có gì là khác biệt nhau lắm. Câu trả lời ta tiếp nhận từ giáo pháp của đức
Phật, bao giờ cũng hoàn toàn tương xứng và rất phù hợp với sự sâu sắc của câu hỏi
mà ta đặt ra.
Trong một chuyến đi sang Anh giảng dạy vào năm 1976 của vị thiền sư Thái lan Ajahn
Chah, khi chuyến đi sắp sửa chấm dứt, ngài hỏi đại chúng có mặt: “Quý vị còn có
những câu hỏi chót nào không? Có vấn đề gì mà quý vị vẫn chưa thấy hài lòng
chăng?”
“Dạ có,” một người phụ nữ đáp. “Tôi đã được nghe những giáo lý này trong nhiều
năm qua, nhưng chưa bao giờ tôi nghe một câu trả lời nào thoả đáng cho câu hỏi:
“Trạng thái Niết-bàn là gì? Chúng ta có còn hiện hữu nữa hay không?”
Có một ngọn nến đang cháy bên cạnh bục ngồi của ngài Ajahn Chah. Thấm ướt
hai ngón tay, Ngài quay sang và bóp tắt ngọn nến.
“Bây giờ ngọn nến đã tắt rồi, chúng ta có còn gì để bàn luận thêm về nó không?
Nó đã đi đâu, bây giờ nó có hiện hữu ở một nơi nào khác hay không?” Ngài Ajahn
Chah hỏi.
Và khi người phụ nữ đặt câu hỏi im lặng không trả lời, Ngài nói thêm: “Không!
Không có một lời luận bàn nào là thích hợp.”
“Câu trả lời của tôi có làm cô hài lòng không?” Ngài hỏi.
“Không!” cô ta đáp.
“Tôi cũng vậy, tôi cũng không hài lòng với câu hỏi của cô.”
Thứ Tư, 17 tháng 12, 2014
Đức Phật bên trong
Bhikkhu Bodhi
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải
dùng đến trí tưởng tượng. Từ năm 1976, tôi bị khổ sở với một chứng bệnh nhức đầu
kinh niên và nó tăng dần thêm theo năm tháng. Tình trạng này cũng giống như có
ai đó khiêng một tảng đá hoa cương thật to chặn ngay trên con đường tu tập của
tôi. Cơn đau ấy thường xóa trắng hết những chương trình trong ngày của tôi, và
nhiều khi còn kéo dài hơn nữa. Nó đã lấy mất đi ít nhất cũng là vài năm về năng
suất trong những sinh hoạt của tôi. Cơn đau đầu ghê gớm này đôi khi khiến tôi
khó có thể nào làm tròn công việc của mình, là một học giả cũng như một dịch giả
kinh điển Phật giáo.
Tôi đã thử tìm mọi phương thuốc chữa. Tôi không những chỉ chữa trị theo y học
Tây phương, mà còn đi hốt thuốc với các bác sĩ Đông y tại những làng hẻo lánh
xa xôi ở xứ Sri Lanka. Tôi đã từng bị đâm vô số lần bởi những mũi kim châm
cứu. Cơ thể tôi đã được bẻ nắn bởi những nhà chuyên môn xoa bóp người Trung Hoa
tạiSingapore. Tôi cũng đã uống những liều thuốc bản xứ của người Tây Tạng tại Dharamsala và
đi tìm sự giúp đỡ nơi các thầy trị tà và chuyên chữa luân xa tại Bali.
Nhưng tất cả chỉ giúp giảm bớt một phần nào thôi! Hiện giờ tôi vẫn đang uống một
số thuốc để kiểm soát cơn đau của mình. Căn bệnh ấy vẫn không thể nào bị diệt tận
gốc rễ.
Tôi biết rất rõ rằng, cơn đau dài lâu của cơ thể có khả năng ăn lần vào tận tâm
can, len lỏi vào mọi ngỏ ngách của tâm hồn ta. Nó có thể phủ bóng đen lên con
tim và lôi ta xuống tận vực thẳm của chán nản và tuyệt vọng. Tôi không dám
tuyên bố rằng mình đã chiến thắng và khuất phục được cái đau, nhưng trong mối
liên hệ dài lâu với nó tôi cũng đã khám phá một số những nguyên tắc có thể giúp
ta chịu đựng được cơn đau này. Và tôi xin được chia sẻ đến các bạn.
Điều trước nhất, ta nên thấy được sự khác biệt giữa một cái đau nơi thân với phản
ứng của tâm đối với cái đau ấy. Mặc dù thân và tâm có mối liên hệ rất mật thiết
với nhau, nhưng tâm ta không nhất thiết phải chịu cùng chung một số phận với
thân. Khi thân có một cơn đau, tâm ta có thể lùi ra xa một chút. Thay vì bị lôi
kéo vào, tâm ta có thể bước lui lại và quan sát nó.
Thật ra, với một sự thực tập, tâm ta có thể quay ngược cơn đau lại và biến nó
thành một phương tiện để giúp ta tăng trưởng.
Đức Phật có so sánh cái đau ở thân cũng giống với người bị bắn một mũi tên. Và
chúng ta thường cộng thêm vào cái đau ở thân ấy bằng nỗi đau của tâm (sự khó chịu,
thù hận, than van, trách móc...). Điều ấy cũng giống như ta bị bắn thêm một mũi
tên thứ hai. Một người có tuệ giác sẽ dừng lại ở mũi tên thứ nhất. Nếu ta biết
đơn giản gọi đúng tên thật của cái đau, ta sẽ giữ cho nó không lan rộng ra
ngoài phạm vi vật lý và không để nó làm thương tổn sâu xa đến tâm hồn.
Ta có thể xem cái đau như một vị thầy – một vị thầy rất khắt khe nhưng cũng rất
hùng hồn. Tôi thường có cảm giác cơn đau đầu của mình là một vị Phật nội tại (built-in
buddha) lúc nào cũng nhắc nhở tôi về sự thật mầu nhiệm thứ nhất: khổ đế.
Có được một vị thầy như vậy thì tôi đâu cần gì phải nghe bài Pháp đức Phật dạy ở
Lộc Uyển gần thành Ba-la-nại. Mỗi khi muốn nghe âm thanh vang dội của lời
Phật tuyên bố rằng: “Bất cứ những gì có thể cảm nhận được đều nằm trong vòng khổ
đau”, tôi chỉ cần chú ý đến những cảm xúc đang có mặt trong đầu mình thôi!
Là một người đi theo con đường của Pháp (dharma), tôi hoàn toàn đặt trọn niềm
tin vào luật nghiệp quả (karma). Vì vậy, tôi cũng chấp nhận tình trạng đau đớn
này có thể là do một nghiệp quả bất thiện nào đó tôi đã gây nên trong quá khứ.
Nhưng không phải tôi khuyên bạn rằng, nếu như ta có một cơn bệnh nào thì cứ việc
chấp nhận ngay là do nghiệp quả. Vì mặc dù đó có thể là quả trái không tránh được
của nghiệp xưa, nhưng nó cũng có thể là kết quả của những nguyên nhân trong hiện
tại, và nếu ý thức được điều ấy, ta có thể chữa trị rất hiệu quả khi tìm ra
phương cách thích hợp. Nhưng khi ta đã thử nhiều cách khác nhau rồi, mà tình trạng
vẫn cứ bướng bỉnh và ngoan cố thì ta có thể tin chắc đó là do nghiệp quả.
Thú thật với bạn là tôi không bao giờ mất công suy nghĩ hay thắc mắc tìm hiểu
xem cái nghiệp ấy là gì, và tôi cũng khuyên bạn đừng bao giờ để cho nó làm mình
phải mất ngủ hoặc lo nghĩ mất thì giờ vô ích. Chúng rất dễ dẫn ta đến những suy
tưởng viển vông và rồi là những thực tập mê tín dị đoan. Điều quan trọng là khi
ta có niềm tin vào luật nghiệp quả, ta sẽ hiểu rằng cây chìa khóa của tương lai
và hạnh phúc đang nằm ngay trong tay ta. Nó nhắc nhở ta đừng làm những gì gây
thêm khổ đau cho người khác, và cố gắng làm những điều mang lại lơi ích, hạnh
phúc cho người chung quanh.
Một cái đau kinh niên có thể là một sự nhắc nhở, khuyến khích ta phát triển
thêm những đức tánh tốt lành. Được như vậy, ta có thể xem đó như là một điều
may mắn thay vì một gánh nặng. Nhưng lẽ dĩ nhiên ta vẫn tiếp tục làm những gì cần
thiết để tìm một phương thuốc chữa. Sự cố gắng để đối trị với cơn đau kinh niên
đã giúp tôi phát triển một thái độ kiên nhẫn, can đảm, nghị lực, an tĩnh và tâm
từ. Có những lúc, khi tôi hoàn toàn trở nên bất lực vì cơn đau, tôi chỉ muốn
buông bỏ hết mọi trách nhiệm, bổn phận của mình và chịu khuất phục trước số phận.
Nhưng rồi tôi khám phá ra rằng, khi tôi gác qua một bên những lo nghĩ về cái
đau, chỉ đơn giản kiên nhẫn có mặt với nó, cuối cùng nó sẽ giảm cường độ xuống
và trở nên dễ chịu hơn. Và từ đó tôi có thể có những quyết định hợp lý hơn và
làm việc hiệu quả hơn.
Kinh nghiệm về cơn đau kinh niên này giúp tôi ý thức được rất rõ rằng chúng ta
sẽ không thể tách rời cái đau ra khỏi tình trạng của con người. Đó là một điều
mà những người sống ở Hoa Kỳ, quen với sự dễ chịu, đầy đủ và sung túc, rất dễ
quên đi. Cái đau kinh niên đã giúp tôi cảm thông được với hàng tỷ người khác hiện
vẫn đang sống trong đói khát, thiếu ăn mỗi ngày, với hàng triệu phụ nữ phải đi
bộ hàng cây số để gánh nước về cho gia đình, với những quốc gia còn chậm tiến,
người ta còn phải ngủ trên những chiếc giường thô sơ, các bệnh viện thiếu vệ
sinh căn bản, bệnh nhân nằm nhìn lên những bức tường lạnh câm...
Ngay giữa những lúc cơn đau bùng lên dữ dội – khi tôi không còn đọc sách, viết
lách và nói năng được nữa – tôi vẫn không để cho nó làm bối rối tâm hồn mình,
tôi vẫn giữ theo lời nguyện thực tập, nhất là nguyện rằng sẽ tiếp tục đi trên
con đường này cho đến trọn đời.
Khi cơn đau từ đầu lan rộng xuống hai vai, tôi dùng thiền tập để quán sát sâu sắc
những cảm thọ ấy. Điều đó giúp tôi thấy được chúng chỉ là những sự kiện hoàn
toàn vô ngã. Chúng là những tiến trình xảy ra trên các bình diện thô sơ và
vi tế do các năng lực của điều kiện, và mỗi cảm xúc đều có một cơ cấu, màu sắc,
mùi vị riêng rất đặc thù của chính nó.
Tôi khám phá phương cách hay nhất để xoa dịu ảnh hưởng của cơn đau là áp dụng một
công thức được lặp đi lặp lại nhiều lần trong các bài pháp của đức Phật: “Bất cứ
là cảm thọ nào – trong quá khứ, hiện tại hay tương lai – tất
cả đều không phải là của tôi, không phải là tôi, và không phải là cái ngã của
tôi.”
Sự thực tập ấy không đòi hỏi ta phải có một định lực mãnh liệt hoặc một tuệ
giác sâu xa nào, nó cũng vẫn sẽ mang lại cho ta rất nhiều lợi ích. Thực tập
công thức quán chiếu ấy sẽ giúp ta tạo nên một khoảng cách giữa ta và kinh nghiệm
đau đớn của mình.
Sự quán chiếu ấy sẽ không cho phép cái đau có quyền hạn tạo nên một cái tôi
trong tâm ta nữa, và nhờ vậy ta trở nên an tĩnh và có nhiều can đảm hơn.
Mặc dù phương cách này đòi hỏi thời gian và công phu thực tập, nhưng khi ba điều
quán niệm ấy – không phải là của tôi, không phải là tôi và không phải là cái
ngã của tôi – trở nên vững mạnh, cái đau sẽ mất đi quyền lực của nó, cánh cửa
chấm dứt khổ đau sẽ hé mở, và cánh cửa ấy sẽ dẫn ta đến một sự tự do vô cùng rộng
lớn.
Thứ Ba, 16 tháng 12, 2014
Lá chắn tình thương
Sylvia Boorstein
Tôi nghĩ câu chuyện Phật giáo đầu tiên mà tôi được nghe khi
mới bắt đầu tu tập, vào ba mươi năm trước, là câu chuyện này. Có một bọn cướp
kéo ngang qua miền quê ở Nhật, gieo tang tóc và kinh hãi cho bất cứ nơi nào
chúng đến. Khi chúng sắp sửa kéo đến một làng nọ, tất cả các tu sĩ trong ngôi
chùa của làng đều rủ nhau di tản hết, chỉ có vị trú trì là ở lại. Khi bọn cướp
bước vào chùa, chúng thấy vị sư trưởng ngồi yên trong tư thế toạ thiền giữa
chánh điện, vững chãi và tĩnh lặng.
Tên tướng cướp lộ vẻ tức giận, hắn bước đến gần vị sư, tuốt gươm ra và hét lớn:
“Tên kia, ngươi có biết ta là ai không? Ta là người có thể đâm lưỡi gươm này
xuyên qua người của ngươi mà không hề rúng động hay chớp mắt!”
Vị sư mở mắt nhìn tên tướng cướp và nói: “Và thưa ngài, tôi là người có thể để
lưỡi gươm của ngài đâm xuyên qua mà không hề rúng động hay chớp mắt!”
Phải mất nhiều năm tôi mới thật sự hiểu được ý nghĩa sâu sắc của câu chuyện thiền
ấy. Ngày xưa, tôi không bao giờ có thể tưởng tượng được là mình có thể đứng trước
một sự việc như vậy mà lại không chớp mắt. Khi còn trẻ, nếu như có ai đi thử
tánh giật mình của tôi thì chắc chắn tôi sẽ thất bại hoàn toàn. Và một lý do
khác nữa khiến tôi không thích câu chuyện ấy vì nó có vẻ coi thường sự sống
quá! Ngày xưa tôi nghĩ câu chuyện ấy muốn nói rằng, đối với vị thiền sư thì việc
sống hay chết cũng không có gì khác biệt. Nhưng đối với tôi thì chúng là một trời
một vực khác nhau. Tôi thì rất muốn sống!
Thật sự tôi không biết phải chăng câu chuyện ấy có ý muốn nói rằng, vì có được
một tuệ giác lớn, thấy được chân lý, nên đối với vị thiền sư vấn đề sanh tử
không có gì khác biệt nhau! Nhưng tôi nghĩ đó không phải là vấn đề quan trọng.
Điểm quan trọng, mà bây giờ theo tôi hiểu, là vị thiền sư ấy thật sự biết rõ rằng,
trong giây phút đó ông không thể làm gì khác hơn được hết. Câu chuyện không hề
nói gì về việc vị thiền sư ấy cảm thấy thế nào về cái chết; chỉ nói rằng ông vẫn
giữ được sự quân bình của mình trước cái chết không tránh được trước mắt.
Đứng trước một khó khăn chắc chắn sẽ xảy ra, ta có hai sự chọn lựa. Ta có thể
chống cự bằng thân hoặc trong tâm, và rồi chỉ tạo nên nhiều rối loạn và bất an
cho chính mình. Hoặc ta có thể đơn giản nhận biết rằng sự thật đang xảy ra là
như vậy! Mà bạn biết không, thường thì đó là điều xảy ra khi những việc trọng đại,
ví dụ như một cái chết, đang sắp sửa đến gần. Tâm ta sẽ buông bỏ hết những hy vọng
về một thực tại khác hơn. Và khi ta buông bỏ được những kỳ vọng ấy, tâm ta cũng
sẽ trở nên buông thư và an tĩnh hơn. Nó không còn mệt mỏi đi tìm kiếm một lối
thoát nào, vì thật ra không còn cách nào khác hơn nữa. Thế nên, mặc dù đó là sự
chấm dứt, nhưng không có gì là khổ não.
Điều quan trọng đối với tôi là làm sao để thấy được sự khác biệt giữa khổ (suffering)
và đau (pain). Khổ là phần xáo động, căng thẳng xảy ra trong tâm, nó chỉ là phần
phụ trội, cộng thêm vào cho cái đau của thân hoặc tâm. Nếu ta tránh được sự
căng thẳng ấy là ta cũng tránh được cái khổ. Và vị thiền sư trong chuyện đã có
thể buông bỏ được sự căng thẳng ấy.
Bạn biết không, ngay cả những ai chưa có nhiều năm tháng tu tập cũng vẫn có khả
năng buông bỏ được cái phần bất an ấy, khi họ bắt buộc phải đối diện với những
gì không thể tránh né được. Mà đó không phải là lý thuyết suông đâu! Tôi đã từng
chứng kiến điều này nơi những người bạn của tôi, khi họ đang hấp hối với chứng
bệnh ung thư.
Một thái độ vô úy, không sợ hãi, chỉ đơn giản là một thái độ biết chấp nhận bất
cứ việc gì đang xảy ra. Nhưng đó không phải là một thái độ “dửng dưng”, “bất cần
đời” của tuổi trẻ mới lớn, có tính cách thách thức. “Bất cứ việc gì” ở đây có
nghĩa là cho dù đó là bất cứ sự thật nào. Cái này xảy ra vì cái kia xảy ra, cái
này có mặt vì cái kia có mặt. Luật nghiệp quả có thật. Đây là những gì đang có
mặt và xảy ra trong giây phút này. Thực tại là như vậy và không thể khác hơn.
Nó là như thế đó, và một thái độ biết chấp nhận luôn có khả năng xoa dịu mọi bất
an.
Sự vô úy như thế còn phát xuất từ một tấm lòng từ ái và tốt đẹp, cho dù ta phải
đối diện với bất cứ sự đe doạ nào. Lẽ dĩ nhiên là ta cảm thấy sợ hãi, nhưng
thay vì chống cự lại, ta ôm lấy và chấp nhận nỗi sợ ấy – tâm từ là một liều thuốc
có công năng trực tiếp giải trừ hết mọi sợ hãi.
Điều này đã được diễn tả qua một hình ảnh rất đẹp về đức Phật trong đêm thành đạo.
Đức Phật ngồi dưới cội bồ-đề, một dáng ngồi thanh thản và tĩnh lặng, và bao bọc
quanh ngài như có một tấm màn chắn bảo vệ. Bên ngoài, chung quanh là các ma
vương, chúng là những phiền não, khổ sở đàn áp tâm ta. Có những ma vương cầm
giáo nhọn hướng về đức Phật, có những ma vương hiện hình thành những thiếu nữ
xinh đẹp đầy khêu gợi, chúng muốn ngăn chặn sự tập trung của Phật, muốn khơi dậy
sự sợ hãi trong tâm ngài trước sự tấn công tới tấp từ mọi phía.
Nhưng đức Phật vẫn ngồi yên bất động, với một bàn tay chạm xuống mặt đất, như
muốn nói rằng: “Ta có toàn quyền có mặt ở nơi này.” Tấm màn chắn che chở chung
quanh, bảo vệ Phật khỏi mọi sợ hãi và khổ đau đó chính là lòng từ. Chính năng
lượng tâm từ của ngài đã toả chiếu và làm tan biến mọi khổ não và lo âu.
Thái độ bao dung và tâm từ của ta cũng là tấm chắn bảo vệ và che chở chính
mình. Trong hình ảnh ấy, khi những ngọn giáo và mũi tên bay chạm vào tấm màn chắn
bao quanh Phật, chúng biến thành những đoá hoa thơm lả tả rơi xuống mặt đất
chung quanh ngài. Tôi nghĩ rằng những đoá hoa đó tượng trưng cho sự chuyển hóa,
khổ đau biến thành hạnh phúc. Và nếu ta biết nuôi dưỡng tâm từ, với một tấm
lòng rộng mở, cũng như đức Phật, ta sẽ có khả năng làm tan biến mọi sự mê mờ,
khổ đau và tất cả những sợ hãi trên cuộc đời này.
Bây giờ ta hãy trở lại với câu chuyện của vị thiền sư kia. Giả sử trong tu viện
của ông có những vấn đề khó khăn, bất hòa, những đệ tử của ông tỏ thái độ bất
kính, bỏ ông đi tìm một vị thầy khác. Hoặc là ông bị mắc chứng bệnh đau khớp
xương, không thể ngồi thiền trên toạ cụ như xưa... Nếu như tôi là người viết
chuyện, tôi sẽ kể rằng vị thiền sư ấy không hài lòng với những gì xảy ra, có lẽ
ông thất vọng về phương pháp dạy đệ tử của mình, ông muốn cho cơ thể mình bớt
đau... Nhưng ông vẫn không hề rúng động hay chớp mắt!
Thứ Hai, 15 tháng 12, 2014
Ai cũng có khả năng thương yêu
Joseph Goldstein
Khi mới bắt đầu tập thiền quán tâm từ, metta, có một
kinh nghiệm đã giúp tôi thấy rõ được tâm thức mình, cũng như cách tôi liên hệ với
những người chung quanh. Lúc ấy, tôi được hướng dẫn thực tập ban rải tình
thương của mình đến một người dưng, mặc dù lúc đó tôi cũng không hiểu rõ “người
dưng” là như thế nào.
Thầy tôi, ngài Anagarika Munindra, chỉ nói rằng tôi hãy chọn một người nào
gần đây, người mà tôi không thương cũng không ghét.
Lúc ấy tôi đang sống ở Ấn Độ, và trong tu viện nhỏ nơi tôi trú ngụ có một ông
lão làm vườn. Tôi gặp ông ta mỗi ngày, nhưng thật sự tôi chưa bao giờ nghĩ gì về
ông. Ông chỉ là một người mà tôi nhìn thấy mỗi khi đi ngang qua. Và tôi giật
mình khi ý thức được rằng, có biết bao nhiêu người như vậy chung quanh tôi, những
người mà tôi hoàn toàn không thương cũng không ghét. Khám phá đó tự nó cũng là
một sự giác ngộ đối với tôi.
Và rồi trong nhiều tuần liên tiếp, đều đặn mỗi ngày, trong lúc ngồi thiền tôi bắt
đầu quán tưởng về ông lão làm vườn, và niệm thầm những câu như: “Mong cho ông
được an vui, mong cho ông được khoẻ mạnh, mong cho ông không bị khổ đau.”
Sau một thời gian, tôi bắt đầu cảm thấy một sự ấm áp và thân thiện đối với ông
lão, và mỗi khi tôi đi ngang ông con tim tôi mở rộng ra.
Và đó cũng là một kinh nghiệm rất quan trọng trên con đường thực tập của tôi.
Tôi khám phá được rằng, cảm tình của tôi đối với một người nào đều tùy thuộc
vào ở chính nơi tôi, mà thật ra, tình cảm ấy hoàn toàn không hề dính dáng gì đến
người kia, đến thái độ của họ, hay vào hoàn cảnh. Ông lão làm vườn trước sau vẫn
vậy không thay đổi. Ông không hề đổi cách ông làm việc hay thái độ đối với tôi.
Nhưng vì tôi có một cái nhìn mới, và một sự thực tập, con tim tôi bắt đầu mở rộng
ra với một sự cảm thông chân thành và quý mến.
Và điều này cũng giúp tôi học được một bài học quan trọng về năng lượng có mặt
của tâm từ. Vì tình thương này không hề tùy thuộc vào bất cứ một cá tính nào của
người kia, nên nó sẽ không dễ biến đổi thành thù ghét, hờn giận hay là bực dọc,
như các loại tình thương có điều kiện khác. Tình thương vô điều kiện này được
phát xuất từ một con tim rộng lượng.
Chúng ta ai cũng có thể cảm nhận được thứ tình thương này, nhưng có thể ta sợ hoặc
nghĩ rằng nó hoàn toàn nằm ngoài khả năng của mình. Nhưng tâm từ không phải là
những năng lực dành riêng cho các bậc như là Đạt-lai Lạt-ma, Mother Teresa, hoặc
một hạng người xa xôi nào đó. Chúng ta ai cũng có thể thực tập và phát triển,
và đều có khả năng thương yêu theo cách ấy.
Làm sao ta có thể mở rộng con tim mình ra trước những khổ đau? Tuệ giác nào có
thể làm phát khởi một tâm từ trong ta?
Có một sự thật rất đơn giản và sâu sắc là hạnh phúc chân thật không hề phát xuất
từ sự thu góp hoặc tích chứa cho nhiều những cảm giác vui thú. Bạn hãy thử nhìn
lại cuộc đời mình đi, với những cảm giác dễ chịu, những sự kiện vui thích mà
mình đã kinh nghiệm, chúng có mang lại cho ta một hạnh phúc nào vĩnh viễn
chăng? Chúng ta biết chắc là không, bởi vì tự chúng cũng không thể nào có mặt
lâu dài được.
Xã hội và văn hoá chúng ta lúc nào cũng vun bồi cho một niềm tin rằng hạnh phúc
được phát xuất từ những cảm giác vui thích. Có lần tôi xem một trang quảng cáo
thuốc lá có hình của một đôi nam nữ rất đẹp đứng trong một khung cảnh như thiên
đàng, với điếu thuốc trên tay, bên dưới là dòng chữ: “Không có gì ngăn trở được
thú vui của tôi.” Và đó không chỉ là lời quảng cáo cho thuốc lá mà thôi, thật
ra nó có mặt khắp nơi trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Có được cái này và bạn
sẽ có hạnh phúc, nhận được cái kia thì bạn sẽ có một niềm vui...
Một điều rất nguy hiểm là niềm tin này – hạnh phúc chân thật có thể phát xuất từ
những cảm giác vui thích – sẽ khiến ta trở nên khép kín với những gì mang lại
cho ta sự khó chịu. Nhưng nếu ta đóng chặt con tim trước khổ đau thì ta cũng tự
lấp kín nguồn suối thương yêu của chính mình.
Tuệ giác thiền tập sẽ giúp ta thấy rằng, hạnh phúc hoàn toàn không tùy thuộc
vào những cảm giác dễ chịu của ta. Nhưng nếu vậy thì hạnh phúc chân thật bắt
nguồn từ đâu? Và đó cũng là câu hỏi chính của thiền tập.
Thiền tập là một nghệ thuật sống, một nghệ thuật tương quan với những gì có mặt
trong ta và chung quanh ta. Mỗi khi ta có những cảm xúc như buồn hay vui, giận
hờn hay thương yêu, sợ hãi hay can đảm... bao giờ cũng có rất nhiều cách khác
nhau để ta quan hệ với chúng. Ta có bị vướng mắc không? Ta có nhận chúng là
mình không? Tâm ta có rộng lớn đủ để chấp nhận chúng không, hay đang bị chúng
sai xử?
Tâm ta cũng giống như một bầu trời rộng lớn, một không gian bao la. Mọi vật có
thể khởi lên trong đó, nhưng không gian ấy vẫn không hề bị ảnh hưởng. Với công
phu thiền tập tâm ta có thể được giống như bầu trời ấy, không hề bị lôi cuốn
hay dính mắc vào một hiện tượng nào hết. Với một tâm như vậy, chắc chắn ta sẽ
an trú trong hạnh phúc, vì nó không hề bị thay đổi hay chi phối bởi những điều
kiện. Không có một hạnh phúc nào cao tột hơn là niềm an lạc. Và sẽ có lúc ta cảm
nhận được sự thật ấy.
Điều quan trọng ta cần nhớ là hãy xem tâm từ như là một sự thực tập. Có lúc ta
cảm thấy thương yêu, và sẽ có lúc không. Cũng có những lúc niềm đau nỗi khổ to
lớn quá, ta cần phải bước lui lại một chút, khép kín lại một chút, để mình
không bị tràn ngập. Những lúc ấy, ta cần tạo cho mình một khoảng không gian để
có thể lấy lại được sự quân bình và an ổn. Và với một năng lượng mới, ta lại có
thể mở rộng con tim mình ra. Mỗi lần thực tập tâm từ là mỗi lần năng lượng
thương yêu trong ta được lớn mạnh thêm.
Trong thiền tập cũng như trong cuộc sống hằng ngày, vấn đề quan trọng không phải
là ta có một kinh nghiệm đặc biệt nào, mà là ta thực tập tiếp nhận chúng như thế
nào! Nếu ta biết đối xử với chúng cho khôn khéo, cho dù bất cứ điều đó là gì,
tâm ta sẽ mở rộng ra trước mọi kinh nghiệm của cuộc sống. Và tuệ giác ấy sẽ
nuôi dưỡng, làm lớn mạnh tâm từ trong ta.
Đức Đạt-lai Lạt-ma nói: “Chúng ta chỉ là những người khách ghé thăm hành tinh
này. Chúng ta ở đây nhiều lắm thì cũng chín mươi, hoặc trăm năm là cùng. Trong
thời gian ấy, ta hãy gắng làm gì cho hữu ích, mang lại những gì là tốt lành cho
cuộc đời bằng cuộc sống của mình. Hãy tập cho mình có một sự an lạc, và chia sẻ
niềm an lạc ấy đến với người chung quanh. Và nếu ta đóng góp được hạnh phúc cho
kẻ khác, ta sẽ thấy được mục đích của cuộc đời này, ý nghĩa của cuộc sống này.”
Điều đó rất đơn giản. Chúng ta chỉ ở đây trong một thời gian thật ngắn ngủi.
Chúng ta có thể làm điều gì tốt lành với cuộc sống của mình không? Ta có thể tạo
cho mình một niềm an lạc và san sẻ hạnh phúc ấy với người khác được chăng? Và
khi ta đóng góp thêm cho hạnh phúc của kẻ khác ta sẽ thấy được mục đích và ý
nghĩa của cuộc đời này. Công việc của ta là vậy. Và đó cũng là một thử thách của
ta.
Chủ Nhật, 14 tháng 12, 2014
Tôi muốn lại được làm sáu tuổi
Từ nay tôi xin được chánh thức đệ đơn từ chức người lớn, vì cần phải nhận lãnh
trách nhiệm của một em bé sáu tuổi. Tiền thuế của tôi chắc chắn sẽ thấp hơn.
Tôi muốn được trở lại làm sáu tuổi.
Tôi muốn đến tiệm McDonald’s và nghĩ rằng đó là một nhà hàng sang trọng
và nổi tiếng nhất trên toàn cầu. Tôi muốn được xếp tàu giấy thả trôi trên những
vũng nước bùn và thảy đá tạo thành những con sóng. Tôi muốn được nghĩ là kẹo
sô-cô-la quý báu hơn tiền, vì chúng có thể ăn được. Tôi muốn được chạy đá banh
với chúng bạn trên sân vào những giờ ra chơi. Tôi muốn được thức thật khuya
trong đêm giao thừa để đón ông bà và núp lén xem ông táo.
Tôi tiếc nhớ lại những ngày xa xưa khi cuộc sống rất đơn giản. Khi những gì tôi
biết chỉ là mười hai màu căn bản, một bảng toán cộng và vài bài ca dao học thuộc
lòng. Nhưng tôi không thắc mắc gì hết. Vì tôi không hề biết những gì tôi không
biết, mà tôi cũng chẳng cần muốn biết.
Tôi muốn được đến trường, ăn quà với chúng bạn, ra sân chơi, chạy đuổi nhau và
đi cắm trại. Tôi muốn được lúc nào cũng vui, vì tôi không biết về những gì tôi
cần phải buồn giận. Tôi muốn nghĩ rằng thế giới này rất công bằng, ai ai cũng
thành thật và tốt bụng với nhau. Tôi muốn tin là bất cứ việc gì cũng đều có thể
được.
Đôi lúc, trong khi lớn lên, tôi đã được học quá nhiều. Tôi học về vũ khí nguyên
tử, về sự kỳ thị, về nạn đói, về bệnh tật, về ly dị, về lường gạt, về đau đớn,
và về cái chết. Tôi muốn nghĩ là tất cả mọi người trên trái đất này, trong đó
có tôi, sẽ sống đời đời, vì tôi không biết ý niệm về cái chết. Tôi muốn không
biết gì hết về những rắc rối, phức tạp của cuộc đời, và mừng vui trước những điều
rất nhỏ nhặt. Tôi muốn ti-vi là một cái gì tôi xem cho vui chứ không phải là một
phương tiện để tôi trốn tránh cuộc đời hoặc những công việc cần phải làm.
Tôi muốn sống để biết rằng, những điều nhỏ mang lại cho tôi niềm vui, và chúng
sẽ vẫn mãi đem lại cho tôi hạnh phúc ấy y như là lần đầu tiên khám phá. Tôi muốn
được trở lại làm sáu tuổi.
Tôi nhớ là mình đã không nhìn thế giới này một cách toàn vẹn, nhưng chỉ chú ý đến
những gì có liên hệ trực tiếp đến mình. Tôi muốn được ngây thơ đủ để tin rằng,
nếu tôi được hạnh phúc thì mọi người khác cũng thế.
Tôi muốn được đi trên bãi biển và chỉ nghĩ đến cát trắng dưới bàn chân, và hy vọng
tìm thấy một viên đá thủy tinh màu xanh thẩm mà tôi hằng mơ ước. Tôi muốn bỏ ra
những buổi chiều trèo cây, chạy xe đạp với đám bạn, để mặc cho người lớn lo
nghĩ về thời giờ, về những buổi hẹn khám bác sĩ, và làm sao để có tiền sửa xe,
đóng bảo hiểm...
Tôi muốn tự hỏi mình sẽ làm gì khi lớn lên, mình sẽ ra sao, thành người như thế
nào, và không hề lo lắng về chuyện tôi sẽ thật sự ra sao, nếu một mai ước mơ
kia không thành sự thật.
Tôi muốn được lại cái thời gian ấy. Tôi muốn được dùng nó bây giờ như một nơi ẩn
náu, vào những lúc chiếc máy vi tính của tôi bị hư, khi giấy tờ cần giải quyết
đang chất đống trên bàn, hay khi vài người bạn đang gặp khổ đau, những lúc gây
gổ với người bạn đời, hay lúc ngồi tiếc nuối những ngày vui qua mau, hoặc những
lúc không biết việc mình làm là đúng hay sai...
Tôi có thể trở về ngày tháng ấy, để được chạy ra ngoài sân thả diều, và không
lo nghĩ gì khác hơn ngoài việc nên chọn cánh đồng nào chiều nay trời sẽ lộng
gió.
Tôi muốn được trở lại làm sáu tuổi!
Vô danh
Thứ Bảy, 13 tháng 12, 2014
Những bài học thiên văn
Anne Cushman
Vài tháng trước, vào một buổi tối mùa xuân trời
trong, tôi dẫn đứa con trai 6 tuổi của mình, Skyle, đến trung tâm không
gian Chabot Space and Science Center ở vùng Berkeley để
quan sát Thổ tinh (Saturn) qua chiếc kính thiên văn dài 28 bộ Anh.
Bầu không gian là niềm say mê mới nhất của bé Skyle. Nó thường mải mê vùi
đầu trong những quyển sách với tựa đề như là “Một trăm điều bạn cần biết về
không gian”, hay là chơi với những tấm thẻ, một mặt có in hình chiếc viễn vọng
kính Hubble Scope, mặt bên kia là câu đố như là, “Sự bùng nổ của ngôi sao, super
nova, được cấu tạo như thế nào?” “Làm thế nào các khoa học gia biết được một
dãy thiên hà đang xoay theo chiều nào?”...
Bầu không gian không phải là một đề tài tôi thường chú ý, vì vậy mà những quyển
sách của bé Skyle – nó bắt tôi đọc cho nghe sau buổi ăn chiều – thường
mang lại cho tôi nhiều điều mới lạ. “Chất đen, dark matter, là tên đặt cho
những vật ngoài vũ trụ, vì các khoa học gia tuy biết rằng chúng có mặt, nhưng
không thể tìm thấy chúng” Hoặc là, “Các khoa học gia có thể đoán được vũ trụ
này có bao nhiêu vật thể (matter) bằng cách đo lường sự chuyển dịch của các
thiên hà. Điều này cho ta thấy, tất cả những vì sao và hành tinh chỉ là một phần
rất nhỏ của vũ trụ. Phần lớn còn lại là vô hình.”
Câu nói ấy đã khiến cho tôi suy nghĩ hết trọn một tuần. Và tôi cũng kinh ngạc
là tại sao các khoa học gia vẫn chưa trở thành những tu sĩ huyền bí, quỳ sụp xuống
và tôn thờ những chiếc viễn vọng kính của họ!
“Bên ngoài vũ trụ còn có gì nữa không?” Chúng tôi cũng đọc cùng trong một quyển
sách ấy của Skyle. “Các khoa học gia vẫn còn suy đoán, bằng cách dựa trên
những manh mối còn sót lại sau khi vũ trụ được sanh ra. Nhưng họ tin chắc rằng,
nơi ấy hoàn toàn không có thời gian, cũng không có khoảng cách và vật thể.”
Câu chót ấy nghe sao giống như một lời kinh xưa, vọng ra từ trong một thiền viện,
tụng theo nhịp mõ vang vang. Nhưng thật ra tôi đang đọc cho bé Skyle nghe
nơi chiếc bàn ăn trong nhà bếp, trong khi nó đang say mê gặm nhắm miếng bánh
màu hồng có dạng một trái trứng mà nó tin rằng có một con thỏ to thần bí nào đó
đã giấu trong nhà chúng tôi vào buổi sáng Easter. Mà đâu ai có thể trách
nó được? Trong một thế giới của vụ nổ lớn, Big Bang, và những đường hầm
thông thương, wormholes, kết nối các vũ trụ khác lại với nhau, thì tôi
cũng có thể tin vào sự có mặt của một con thỏ to huyền bí được chứ!
Tôi và bé Skyle đi đến đài trung tâm thiên văn Chabot với đứa
bạn thân cùng tuổi, Alex, cũng say mê khoa học như nó. Bé Alex thì
lại rất đam mê về môn vi trùng học, microbiology. Những món đồ chơi của nó
là những con vi khuẩn nhồi bông, đủ mọi loại, mọi chứng bệnh.
Skyle và Alex đã làm bạn với nhau trước khi chúng biết đi, khi
tôi và má nó thường bế hai đứa ra chơi ngoài công viên gần nhà. Vào năm ba tuổi, Alex bị
chẩn đoán với căn bệnh loạn dưỡng cơ (muscular dystrophy) và hiện giờ
đang được chữa trị theo một phương pháp genetic còn trong vòng thử
nghiệm. Và điều đó có nghĩa là trong vòng mười năm tới, sự thành công hay thất
bại cũng đồng nghĩa với sự sống chết của nó.
Bé Alex không chạy nhanh như chúng bạn, và nó cũng gặp khó khăn khi
bước lên những bậc thang. Nhưng trước những chuỗi cười giòn tan, thường không
ai nhớ đến căn bệnh mà nó đang mắc phải.
Bé Skyle cũng có vấn đề riêng của nó, mặc dầu không đến nỗi nguy hiểm
đến mạng sống. Lúc ba tuổi, nó phải đi điều trị vấn đề về sự phối hợp giác
quan, sensory integration. Hệ thần kinh của nó quá nhạy cảm và có một kết
cấu hơi khác thường. Nó có thể nghe được tiếng dòng điện chạy vang trong tường,
khi ngủ phải cần những tấm màn che thật tối, và tôi vẫn thường bồng nó khóc la
ra khỏi những buổi tiệc sinh nhật vì tiếng ồn lớn.
Bây giờ thì mọi việc đều đã trở nên khá bình thường. Nhưng trong những năm
tháng qua, tình bạn giữa nó và bé Alex là chỗ nương tựa cho cả hai,
chúng cùng vui đùa và chia sẻ những say mê lẫn các khó khăn của nhau.
Chúng tôi đến nơi khi bầu trời đêm cũng vừa buông xuống trên mái vòm to của đài
thiên văn Chabot. Đây cũng là nơi đặt chiếc kính thiên văn lớn nhất Hoa Kỳ
và được mở cửa cho công chúng đến xem. Trong khi sắp hàng đứng chờ, Alex và Skyle thi
nhau đố chúng tôi những câu hỏi về Saturn: những vòng đai chung quanh Saturnđược
làm thành bởi những tảng băng và đá. Saturn to hơn trái đất gấp 800 lần,
nhưng nó rất nhẹ, nếu như ta thả vào một đại dương vĩ đại thì nó vẫn nổi trên
nước.
Skyle quay sang nói chuyện với một phụ nữ đứng phía sau, chừng ba mươi tuổi,
có lẽ cũng là một thành viên thiên văn “chuyên nghiệp” như nó. Cả hai bàn với
nhau về 62 mặt trăng của Jupiter và về Proxima Centauri, ngôi
sao gần nhất với mặt trời chúng ta, cách xa khoảng chừng 4 năm ánh sáng.
“Cháu có biết nếu ta tính ra bằng dặm là nó cách xa bao nhiêu không?” Cô ta hỏi.
Skyle nhíu mày suy nghĩ: “Nếu tính ra bằng dặm, ta phải nhân lên 186.000 dặm
cho mỗi giây, nhân với 60 giây trong một phút, nhân với 60 phút mỗi giờ, nhân với
24 giờ trong một ngày, nhân với 365 ngày trong một năm, và rồi nhân lên cho 4
năm. Cháu không tính nhẩm trong đầu được. Có nhiều con số không quá!”
Đến phiên chúng tôi, từng người một thay nhau leo lên một chiếc thang dựng đứng
và bước đến đặt mắt nhìn qua ống nhòm của chiếc viễn vọng kính.
“Má! Má phải xem cái này!” Skyle há hốc miệng!
Tôi đặt mắt vào ống nhìn và qua chiếc kính viễn vọng, 900 triệu dặm xa, là hành
tinh Saturn – màu vàng sáng, với những vòng đai và chói sáng như một
viên kẹo. Chung quanh nó là năm đốm sáng, những mặt trăng lớn nhất của Saturn.
Trong khi ấy, tầng bên ngoài phía trên, một số đông những người mê thiên văn đã
bắt đầu tụ họp. Họ mang theo những chiếc kính riêng của mình, đặt nhắm lên bầu
trời đêm hướng về những vật thể của thiên đàng. Giống như là một buổi hội thiên
văn vậy. Bé Skyle và Alex đua nhau chạy từ chiếc kính thiên
văn này sang cái khác, đặt mắt vào nhìn rồi la lên câu gì đó vô nghĩa. Một trò
chơi bí mật nào đó mà chỉ có chúng mới hiểu với nhau.
Ánh trăng thật sáng, dường như ta có thể đọc sách được. Bé Skyle và Alex tạm
thời chán với bầu không gian, chúng thi nhau tập trò chống tay lộn nhào trên
sân. Tôi và má của Alex ngồi trên một bờ tường xi măng thấp, nhìn
chúng chơi với nhau: Hai đứa bé cũng bí mật và vô thường như những hành tinh
quay tròn ngoài không gian vô tận kia. Cơ thể của chúng cũng được làm bằng cùng
những vật thể cấu tạo nên các vì tinh tú, đã được tôi luyện trong một mặt trời
xa xưa. Tôi tưởng tượng đến sự kinh ngạc của nhà thiên văn đầu tiên khi đặt chiếc
viễn vọng kính lên bầu trời đêm và khám phá ra Saturn với những vòng
đai của nó. Hàng triệu năm qua, loài người chỉ thấy nó như là một điểm sáng
trên bầu trời đêm, như một vị thần linh mà sự di chuyển của nó có thể mang lại
tai hoạ cho con người.
Những năm trước, có lần tôi hỏi má của Alex, làm sao chị vẫn có thể giữ được
niềm an vui và tự tin, trong khi phải săn sóc cho bé Alex – lo chữa
trị, chở nó đi bác sĩ, giữ cho nó được khoẻ mạnh, cầu nguyện cho một ngày nào
đó khoa học sẽ tìm ra thuốc chữa. Chị mỉm cười đáp: “Không ai có thể biết chắc
được mình sẽ có bao nhiêu thời gian với con mình. Tôi chỉ cố gắng tập cho mình
có hạnh phúc trong mỗi ngày.”
Ngồi nhìn chúng nó lộn nhào dưới ánh trăng, một câu kinh trong nhà Thiền chợt đến
với tôi: “Trong ánh sáng, bóng tối cũng có mặt, nhưng ta không cần phải tìm hiểu
bóng tối. Ngay giữa bóng tối, ánh sáng vẫn hiện hữu, nhưng ta không cần phải đi
tìm ánh sáng.”
Đâu ai thật sự biết được trọng lực, gravity, là gì! Quyển sách thiên văn của Skyle nói
như thế. Nó chỉ là một tên gọi mà chúng ta tạm đặt cho một lực hút giúp cho mặt
trăng quay chung quanh trái đất, và trái đất quay chung quanh mặt trời – nó giữ
cho những vật thể trong vũ trụ ở lại với nhau, thay vì là lao vút đi vào một
nơi xa thẳm trong không gian.
Nhìn bé Skyle và Alex đùa chơi với nhau, tôi có chút xót xa
với ước mong sẽ bảo vệ cho chúng lúc nào cũng có hạnh phúc và an toàn, giữa một
cuộc sống đầy dẫy những tai nạn xe hơi, vi khuẩn, súng đạn, hiếp đáp và những
chứng bệnh bất trị. Đó là một ước vọng quá to tát mà tôi không thể nào tính được,
có nhiều con số không quá!
Việc mà tôi có thể làm là thật sự có mặt với tất cả: cảm nhận được trong tim về
những gì tôi biết đang hiện hữu trong vũ trụ này, chúng có mặt rất đầy đủ, mặc
dù mình không thể nhìn thấy. Nhìn sâu vào chiếc viễn vọng kính tôi thấy có những
vì sao đã chết đi và đang sinh trở lại, cách đây hàng trăm năm ánh sáng.
Thứ Sáu, 12 tháng 12, 2014
Chạm những lá xanh
F. Forrester Church
Khoảng hai tuần trước đây, ba cha con chúng tôi suýt bị một
tai nạn khi băng qua con đường trước nhà. Hôm ấy tôi dẫn hai đứa con đến trường
lần cuối cùng trước khi nghỉ hè. Khi băng qua được khoảng ba phần tư đường,
trong lúc đèn cho phép đi bộ vẫn còn sáng và cả ba cha con chúng tôi đều cẩn thận
nắm chặt tay nhau, một chiếc xe phóng ra từ đâu, quẹo gấp ngang góc đường với một
vận tốc chết người, va vào bờ rồi nảy lên, tạt qua hướng chúng tôi đang đứng.
Tôi thấy mặt người lái xe rõ ràng. Tôi có cảm tưởng rằng chúng tôi gần sát đến
độ có thể hôn nhau được. Cô ta là một thiếu nữ có gương mặt đẹp với một ánh mắt
không hồn. Chiếc xe chỉ cách chúng tôi vài phân rồi tạt sang một hướng khác,
bánh xe rít trên đường. Xe đảo qua lại trên đường như đuôi một con cá, sau cùng
cô ta lấy lại được sự kiểm soát rồi biến đi mất dạng. Tôi đứng đó mà nín thở, đầu
gối run rẩy, tim tôi đập như trống. Ngược hẳn lại, hai đứa con tôi phá lên cười,
chúng đuổi nhau qua phía bên kia đường, chạy hết từ cây này sang cây khác, như
mọi ngày, nhảy lên quơ tay cố chạm những chiếc lá xanh.
Vẫn còn run sợ vì chuyện vừa xảy ra thật bất ngờ, tôi chẳng biết phải nghĩ hay
nói gì. Tôi làm chuyện dĩ nhiên: nổi giận. Không phải với người tài xế lái chiếc
xe ấy, bởi vì cô ta đã đi mất rồi. Tôi trút cơn giận lên hai đứa con tôi. Tôi định
sẽ dạy cho chúng một bài học mà rõ ràng chúng đã không học được sau kinh nghiệm
vừa rồi.
“Đừng bao giờ, đừng bao giờ lơ đãng một phút nào khi băng qua đường. Các con có
thấy chiếc xe khi nãy không? Chỉ còn một chút nữa là nó đụng ta rồi. Các con có
biết vậy không? Chỉ còn một chút xíu nữa thôi là... ”
“Thôi hết rồi mà ba,” đứa con trai 8 tuổi của tôi vô tư trả lời, rồi nhảy lên cố
nắm lấy một nhánh cây mà nó đã bắt hụt khi nãy. Lúc này đứa con gái 6 tuổi của
tôi đã nhảy lò cò xuống tận góc đường và sắp sửa mất dạng.
Như vậy là quá mức! Cơn giận của tôi bùng nổ. Nếu hai đứa con tôi còn nhớ gì về
buổi sáng đến trường hôm ấy, có lẽ là: cha chúng nó đôi khi chẳng cần gì hết
cũng có thể trở nên giận dữ, điên lên một cách thật vô lý. Và hai đứa con tôi
nghĩ đúng. Chúng nó có làm gì sai đâu! Chúng nắm tay tôi, băng qua đường theo sự
báo hiệu của đèn. Sự thật thì tôi chẳng có bài học gì để dạy chúng cả!
Nếu có chăng là bài học này: đời sống đầy dẫy những chuyện bất ngờ. Khi ta tưởng
rằng chung quanh ta an toàn thì đâu đó có một người nào đang để tay lên cần giật:
một mạch máu vỡ nơi óc, hay nghẹn nơi tim, một tế bào ung thư xuất hiện, một
người lái xe say rượu, một tên nghiện đi tìm thuốc phiện... Khi một chiếc màn
buông xuống, chúng ta không có thì giờ để hỏi han hay xin xỏ thêm một cơ hội
nào khác, dầu có tức giận hay phản kháng. Sự việc chỉ giản dị xảy đến. Rồi đi.
Không cần từ giã.
Tôi muốn dạy cho hai đứa con tôi về những nguy hiểm trong đời sống. Chúng ta ai
mà lại không vậy! Nhìn hai bên đường. Mặc đồ trắng sau khi trời tối. Đừng nhận
kẹo từ một người lạ. Chúng ta trả lời hết mọi thắc mắc và hy vọng rằng chúng sẽ
hỏi thêm. Nhưng để một tên say rượu sau tay lái và những bài học của chúng ta
trở thành vô nghĩa.
Nhưng những bất ngờ của cuộc đời đều có một lợi ích này: chúng làm tăng thêm
giá trị của cuộc sống, mặc dù một mặt là đe dọa tiêu diệt nó. Chiều hôm ấy, khi
đón hai đứa con từ trường về, trên đường đi bộ tôi nhìn xuống, thấy như có gì
thay đổi, hai đứa nó bỗng trở nên quý giá hơn, mỏng manh hơn.
Kinh nghiệm này dạy cho tôi một điều mà tôi cứ quên mãi: đời sống không phải được
cho không, mà nó là một món quà vô giá. Rồi một ngày chúng ta sẽ bị cướp mất
đi, bởi một cơn đau trong đêm khuya hay một người lái xe buổi sáng, nhưng không
gì có thể làm giảm đi giá trị của cuộc sống. Ngược lại, chính cái tính chất mỏng
manh và vô thường ấy bảo đảm cho sự quý giá của nó. Ta chỉ thật sự trân quý một
cái gì mà một ngày nào đó chúng ta biết mình sẽ phải đánh mất. Cần một bẫy sập
rung rinh dưới chân, và một người tài xế điên rồ phủ bóng thần chết thoáng lên
gia đình tôi, để một lần nữa tôi tỉnh thức dậy và thấy được sự nhiệm mầu của cuộc
sống, và năng lượng của tình thương.
Nhưng đời sống là vậy đó. Thường thường, những món quà quý giá nhất lại được
gói trong một thứ giấy rất kỳ cục. Kỳ cục đến độ nếu cho chúng ta một sự chọn lựa,
chắc chắn chúng ta sẽ lựa một món khác. Chúng ta chọn món mà được gói trong những
bao giấy màu thật đẹp, có gắn thêm một cái nơ mỹ miều. Không bao giờ lại là thứ
đồ gói bằng loại giấy vàng cũ kỹ, cột lại bằng một sợi dây gai.
Hai đứa con tôi không biết, nhưng thật ra chúng đã nghĩ rất đúng. Ba cha con
tôi vừa thoáng chạm vào chiếc áo đen rộng thùng thình của tử thần. Tại sao tôi
không nghĩ đến việc nhảy lên chạm những chiếc lá xanh trên cành bạn nhỉ?
Đức Phật bên trong - Nguyễn Duy Nhiên tuyển dịch
Thứ Năm, 11 tháng 12, 2014
Hạnh phúc chính là con đường
Chúng ta tự thuyết phục mình rằng cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn sau khi ta hoàn tất một dự án này, học hết chương trình này, xong một khoá trị liệu này... Hay có thể là sau khi mình lập gia đình, sanh con, và thêm đứa nữa... Nhưng rồi chúng ta sẽ có những bức xúc vì những đứa con của mình vẫn chưa đủ lớn, chừng ấy ta mới có được hạnh phúc. Nhưng sau đó, ta lại có những vấn đề khác vì phải đối đầu với tuổi thiếu niên của chúng. Và ta chắc chắn mình sẽ có hạnh phúc khi nào chúng qua khỏi giai đoạn ấy...
Chúng ta tự nhủ, mình sẽ hoàn toàn có hạnh phúc khi nào người bạn đời của mình
biết thay đổi thái độ, hoặc khi ta có một chiếc xe hơi đời mới hơn, khi ta có một
chuyến nghỉ mát thật vừa ý, hay là khi ta về hưu...
Nhưng bạn biết không, thật ra thì sẽ không có một giây phút nào là hạnh phúc
hơn giây phút này. Nếu không phải bây giờ thì sẽ là bao giờ? Cuộc sống lúc nào
cũng đầy dẫy những thử thách và biến đổi.
Chúng ta đã được hứa hẹn rằng, ở một thời điểm nào đó trong tương lai, cuộc sống
sẽ bắt đầu – một cuộc sống thật sự. Nhưng dường như lúc nào cũng có một chướng
ngại nào đó ngăn chặn không cho ta đến được nơi ấy, ta có vấn đề này cần phải
vượt qua trước, có vài việc chưa làm xong, vài chuyện cần được thanh toán, vài
món nợ cần được trang trải... Rồi chừng ấy cuộc sống mới có thể bắt đầu. Nhưng
rồi tôi chợt nhận ra rằng, những chướng ngại ấy cũng chính là cuộc sống.
Khám phá đó giúp tôi ý thức được là không có một con đường nào để đi đến hạnh
phúc. Hạnh phúc là kinh nghiệm được mình đang sống, trọn vẹn trong giây phút
này, và tiếp xúc với nó thật sâu sắc.
Vì vậy bạn hãy biết trân quý mỗi giây phút mà mình đang có. Và hãy trân quý nó
hơn nữa vì bạn đang chia sẻ giây phút ấy với một người nào đó rất đặc biệt, họ
quan trọng đủ để bạn có thể chia sẻ thời giờ của bạn trong lúc này... Và bạn
cũng nên nhớ rằng, thời gian không chờ đợi một ai.
Vì vậy bạn thôi đừng chờ...
Cho đến khi ta học xong
Cho đến khi ta đi học trở lại
Cho đến khi ta xuống cân
Cho đến khi ta lên cân
Cho đến khi ta có con
Cho đến khi con mình khôn lớn
Cho đến khi ta đi làm
Cho đến khi mình về hưu
Cho đến khi ta lập gia đình
Cho đến khi ta ly dị xong
Cho đến chiều thứ Sáu
Cho đến sáng Chủ nhật
Cho đến khi ta có xe hơi hay nhà mới
Cho đến khi ta trả hết tiền nhà hay tiền xe
Cho đến mùa Xuân
Cho đến mùa Hạ
Cho đến mùa Thu
Cho đến mùa Đông
Cho đến khi ta có đủ tiêu xài
Cho đến ngày lãnh lương
Cho đến khi bài nhạc của mình trổi lên
Cho đến khi ta uống một tách cà phê
Cho đến khi ta nhắm mắt lìa đời
Cho đến khi ta sanh trở lại và khám phá ra rằng, không có giây phút nào khác để
có hạnh phúc hơn là ngay giây phút này.
Hạnh phúc không phải là một nơi nào ta đến, mà chính là con đường ta đang đi.
Thứ Tư, 10 tháng 12, 2014
QUỐC VĂN GIÁO KHOA THƯ - LUÂN LÝ GIÁO KHOA THƯ
QUỐC VĂN GIÁO KHOA THƯ và LUÂN LÝ GIÁO KHOA THƯ là
2 cuốn sách được Nha học chính Đông Pháp xuất bản đầu thế kỷ 20, dùng để giảng dạy
cho bậc tiểu học (3 cấp: Đồng ấu, Dự bị, Sơ đẳng), do các ông Trần Trọng
Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận biên soạn.
Nhận thấy những bài học vỡ lòng này tuy ra đời cách đây cả
thế kỷ, nhưng hiện vẫn còn nhiều giá trị, đầy tính thời sự..., những vấn đề mà
xã hội VN đang nhức nhối...
CHỌN BẠN MÀ CHƠI
(Luân Lý GKT, lớp Đồng ấu)
ÔNG TÔI
(Quốc Văn GKT, lớp Dự Bị)
Labels:
SỐNG GIẢN ĐƠN - AN LẠC
Thứ Hai, 8 tháng 12, 2014
Hãy rút mũi gai ra
Andrew Olendzki
cảnh sát và người biểu tình ở Ferguson - Mỹ - 2014 |
Trong kinh Chấp trượng - Attadanda Sutta, đức
Phật có nói đến nỗi sợ và sự bất mãn của Ngài đối với tình trạng của xã hội:
Kẻ ôm ấp bạo động
Sợ hãi được sanh ra,
Nhìn con người tranh chấp nhau,
Ta sẽ nói về nỗi sợ hãi,
Khiến Ta phải rùng mình.
Thấy loài người vùng vẫy,
Như cá trong nước cạn,
Thấy họ kình chống nhau,
- Ta rơi vào sợ hãi.
Hình ảnh ấy - những con cá vùng vẫy trong ao nước cạn - dường như cũng vẫn còn
diễn tả được rất chính xác cái tình trạng của chúng ta ngày nay. Trong khi những
tài nguyên của trái đất thì mỗi ngày bị hoang phí đi, và số người tiêu dùng thì
mỗi lúc lại tăng lên, tình trạng càng bi đát hơn. Ngay trong thời đức Phật dường
như hoàn cảnh cũng đã tệ lắm rồi. Đức Phật thừa nhận nỗi “chán ngắt” của Ngài
trước hoàn cảnh ấy, nhưng Phật cũng trình bày cho ta thấy con đường giải thoát,
qua sự chứng ngộ của Ngài:
Thấy con người xung đột nhau,
Ta cảm thấy chán ngắt,
Nhưng Ta thấy có một mũi gai,
Khó thấy, ghim vào tim.
Ai bị mũi gai đâm,
Sẽ chạy khắp mọi nơi,
Ai rút mũi gai ra,
Sẽ dừng lại, ngồi xuống.
(Sutta Nipata 935–39)
Tuệ giác quan trọng này giúp ta hiểu rõ được quan điểm của đạo Phật về vấn đề
tranh chấp và hòa bình. Xã hội của chúng ta được tạo nên bởi sự tổng hợp tất cả
hành động của mọi cá nhân sống trong đó. Và vì vậy mà nó cũng chính là một phản
ảnh của trạng thái tâm thức của mỗi cá nhân. Hạnh phúc trong tâm chúng ta sẽ tạo
nên hạnh phúc của thế giới. Và sóng gió trong tâm chúng ta sẽ tạo nên những
sóng gió trong cuộc đời. Những hành động nguy hại và tàn độc của con người
trong cuộc sống thật ra được bắt nguồn bởi một nguyên nhân duy nhất. Nguyên
nhân đó là sự tham ái.
Sự tham ái có hai hình tướng: dính mắc và ghét bỏ. Cái thứ nhất sẽ khiến ta đuổi
theo và nắm bắt những gì mình ưa thích và giữ chặt lấy chúng. Cái thứ hai khiến
ta trốn tránh, chống cự, hoặc tiêu diệt những gì mình không thích.
Sự dính mắc khiến chúng ta tiêu thụ mà không cần biết đến hậu quả, nó xúi giục
ta chiếm đoạt những gì không thuộc về mình, và lợi dụng kẻ khác cho những lợi lộc
cá nhân. Nó cũng là nền tảng của những cá tánh tự cao, tự mãn, lừa lọc, ích kỷ
và tham quyền.
Còn sự ghét bỏ thì thúc đẩy chúng ta tránh né những gì mình cảm thấy khó chịu,
xua đuổi hoặc kỳ thị những người ta không thích, và đánh đổ những gì ta sợ hãi
hoặc không hiểu rõ. Nó là nền tảng của những hành động sai lầm như là bạo động,
tàn nhẫn, và kỳ thị.
Nhưng chúng ta có thể rút những mũi gai này ra khỏi tim mình. Nó chỉ là một mũi
gai, khiến ta như phát điên lên với những nỗi đau và sự sợ hãi, nó thúc đẩy ta
làm tổn thương và thù ghét kẻ khác, nó khiến ta không còn tiếp xúc được với bản
chất tốt lành của chính mình. Cũng chỉ vì mũi gai ấy.
Cũng giống như con sư tử hung tợn với một mũi gai trong lòng bàn chân, chúng ta
cần có một vị lương y nào đó đến để rút mũi gai gây khổ đau ấy ra cho ta. Đức
Phật chính là vị lương y đó. Đức Phật đã chẩn bệnh và thấy rằng vấn đề là do ở
tham ái - nó đã ăn rất sâu trong tâm khiến ta khó nhận thấy - và phương thuốc của
Ngài là ta chỉ cần đơn giản có ý thức về vấn đề của mình.
Phật dạy chúng ta cần áp dụng liều thuốc ấy thường xuyên và bằng những liều lượng
thật lớn. Vì năng lượng của tham ái được nằm sâu kín trong phần vô thức của tâm
ý, cho nên chúng ta cần phải thực tập mang ý thức sáng tỏ trở về có mặt trong mỗi
giây phút hiện tại. Chúng ta chỉ cần thực tập nhìn thấy sự vật cho thật rõ rệt
mà thôi, tiến trình chữa lành và hàn gắn vết thương sẽ xảy ra rất tự nhiên.
Để chữa lành những vết thương gây nên do mũi gai tham ái, đức Phật có trao cho
ta toa thuốc về thiền tập chánh niệm, tức sự quán sát quá trình sinh diệt của mọi
việc xảy ra. Khi ta có thể thật sự thấy rõ được những gì đang xảy ra trong ta,
tuệ giác sẽ dần phát sinh. Nguyên tắc thực tập này rất đơn giản, nhưng nó đòi hỏi
một công phu lớn.
Cũng vậy, muốn chữa lành vết thương của thế giới này, tôi thấy ta cũng có thể sử
dụng cùng một toa thuốc ấy. Phương pháp để chúng ta có thể mang một chánh niệm
cộng đồng soi chiếu lên trên một kinh nghiệm hay vết thương chung nào đó là
chúng ta hãy làm chứng nhân và chia sẻ những gì chúng ta nhận thấy với những
người khác.
Khi những nguyên nhân buồn đau trong ta được phơi bày thì vết thương của mình
cũng sẽ bắt đầu được chữa lành. Và cũng thế, khi những bất công và tàn nhẫn
trong xã hội được phơi bày, không còn bị che đậy, chúng sẽ có một ảnh hưởng
chuyển hóa lớn lao và sâu rộng đến thái độ chung của cộng đồng thế giới.
Theo lời dạy của đức Phật thì thế giới chúng ta được che chở và bảo vệ bởi hai
vị thủ hộ, hai năng lực trong tâm lúc nào cũng xem chừng và hướng dẫn hành động
thiện lành cho ta.
Vị thủ hộ thứ nhất là hiri, sự hổ thẹn, hay tàm, có liên quan đến
lương tâm, lòng tự trọng, nghĩa là biết hổ thẹn khi làm điều không tốt. Nó nói
về một chức năng trong tâm ta có khả năng phân biệt giữa thiện và bất thiện,
đúng và sai, tốt lành và nguy hại. Trong mỗi chúng ta đều có một kim chỉ nam đạo
đức, và theo quan điểm của đạo Phật thì nó không phải là nguyên nhân phát sinh
ra các tôn giáo, mà các tôn giáo chính là hình thái diễn đạt của nó.
Vị thủ hộ thứ hai là ottappa, sự xấu hổ, hay quý, có liên quan đến một
lương tâm xã hội, một cảm nhận đạo đức thuộc văn hóa hay quy ước cộng đồng, khiến
ta biết sợ hãi hay xấu hổ khi những việc xấu ác ta làm bị người khác biết được.
Đạo Phật dạy rằng, bất cứ những việc làm thiện lành nào cũng đều phải có sự
nâng đỡ và hướng dẫn bởi hai vị thủ hộ này. Và ngược lại, những hành động bất
thiện của ta đều do thiếu vắng hoặc xem nhẹ hai đức tánh ấy. Vì vậy, khi có một
vấn đề sai lầm đáng trách nào xảy ra trong xã hội hay cá nhân, nó cũng có nghĩa
là vì ta thiếu ý thức, không có chánh niệm về những việc mình đang làm mà thôi.
Nó có nghĩa là ta đang bị những tham muốn, sân hận, hoặc mê mờ che đậy, khiến
ta không còn có thể có mặt và tiếp xúc với những việc làm của mình nữa.
Khi ta mang chánh niệm và ý thức sáng tỏ chiếu soi lên trên vấn đề - với một
năng lượng đúng mức, một cường độ đúng mức và với một sự chân thành đúng mức -
tự nhiên chúng ta sẽ tránh không làm bất cứ việc gì có thể gây nên khổ đau cho
mình và kẻ khác.
Điều tôi trình bày có vẻ lý tưởng quá chăng? Tôi không nghĩ vậy. Điều này có gốc
rễ rất sâu xa trong một tuệ giác về tự tánh của con người. Bây giờ bạn và tôi,
chúng ta hãy bỏ thêm thì giờ trên chiếc toạ cụ chung,collective zafu, của chúng
mình, và đem ánh sáng chánh niệm chiếu soi vào những góc tăm tối của cuộc đời.
Chúng ta có thể chuyển hóa hết mọi khổ đau trên thế giới này. Chỉ cần mỗi người
chúng ta bắt đầu khởi động tiến trình ấy trong tâm mình mà thôi, và phần còn lại
sẽ xảy ra rất tự nhiên.
Chủ Nhật, 26 tháng 10, 2014
NGƯỜI HỌC TRÒ ĐẠP XÍCH LÔ
Lê Khánh Mai
Kết thúc đợt
công tác ở Hà Nội, tôi trở về trên chuyến tàu Thống Nhất, đến ga Nha Trang lúc
12 giờ đêm. Chị phát thanh viên đón chào hành khách bằng cái giọng trầm khàn vọng
vào đêm sâu làm cho cả con tàu bừng tỉnh giấc. Niềm háo hức của người đi xa, về
với nơi thân thuộc gắn bó khiến bước chân tôi nhanh nhẹn lạ thường. Nhoáng một
cái tôi đã ở ngoài phố. Thật yên tĩnh: vườn hoa với những chiếc ghế đá trầm
ngâm; con đường thoáng đãng, mải miết chạy dài về phía biển. Tôi gọi xích lô để
được về thật nhanh với ngôi nhà ấm cúng, nơi có những đứa con kháu khỉnh, mà những
ngày xa lòng tôi nôn nao nhớ. Một người đạp chiếc xích lô tiến lại. Dưới ánh điện
nhập nhoà, tôi thấy đó là một thanh niên dáng dong dỏng, mặc chiếc áo sẫm màu
vá nhiều miếng to, chiếc mũ lá rộng vành sụp xuống mặt. Cậu ta còn quá trẻ -
tôi đoán vậy
- Về phố Cửu
Long bao nhiêu em?
Tôi hỏi giá,
vì nghe nói giá xe ban đêm gấp đôi ban ngày, vả lại túi tôi đã cạn sau chuyến
đi dài.
- Dạ mười
ngàn .
Chàng trai
đáp một cách từ tốn và rất nhỏ. Tôi nghĩ, không phải đi bộ quãng đường hai cây
số, mà chỉ mất chừng ấy tiền thì không nên đắn đo. Nhưng tôi có quyền mặc cả cơ
mà:
- Năm ngàn
nhé!
- Dạ.
Tiếng “dạ” có
vẻ nhỏ hơn. Tôi lên xe, thầm nghĩ chàng trai này dễ chịu thật, loại người chăm
chỉ đây, chắc hoàn cảnh khó khăn nên mới phải làm lụng đêm hôm vất vả thế này.
Thành phố ngủ
say. Không có tiếng động nào ngoài tiếng xích xe nhịp đều đều theo đôi chân mải
miết của chàng trai. Những vòm cây, những mái nhà tôi đã bao lần đi qua, dừng lại,
ngắm nhìn, vậy mà trong đêm, tất cả trở nên lạ lẫm. Tất cả đột ngột hiện ra rồi
lặng lẽ lùi vào vắng vẻ.
Tôi yêu sự
yên tĩnh này bằng một cảm xúc mới mẻ như lần đầu tiên tôi nhận ra cái thơ mộng
của phố xá lúc đêm khuya. Tôi hít sâu vào lồng ngực, hưởng lấy chút không khí
trong lành ẩm ướt hơi sương. Chưa kịp nghĩ ngợi gì thì xe đã dừng lại trước cảnh
cổng sắt sơn xanh ẩn giữa bờ hoa giấy. Tôi trả tiền, chàng trai không nhận, chỉ
vội vã quay xe, rồi nói, vẫn cái giọng rất nhỏ:
- Cô về nghỉ ạ,
em đi.
Bây giờ tôi mới
ngẩn nhìn chàng trai:
- Phương!
Tôi thốt lên
ngạc nhiên, ngỡ ngàng nhận ra cậu học trò lớp 12A mà tôi đang chủ nhiệm. Không
nói được gì thêm, tôi đứng trân trân giữa đường nhìn theo bóng Phương lẫn vào
phố vắng. Một cảm giác xấu hổ làm tôi đau nhói. Tôi trách mình sao vô tình đến
thế? Sao tôi không nhận ra Phương. Phải vì em mặc chiếc áo vá nhiều miếng to?
Tôi lại còn mặc cả tiền bạc nữa chứ. Điều này có vẻ mâu thuẫn với những những
gì hay ho mà tôi say sưa rao giảng trên lớp. Những ý nghĩ xót xa dày vò khiến
tôi đứng ngoài phố một lúc lâu mới gọi người nhà mở cửa. Đêm ấy tôi trằn trọc
cho đến khi đài phát thanh thành phố truyền đi bản nhạc quen thuộc đầu tiên
trong ngày.
* * *
Tôi đến lớp với
tâm trạng buồn khó tả. Câu chuyện hôm qua giúp tôi hiểu rằng không thể đánh giá
học sinh một cách hời hợt, nông cạn. Năm mươi học sinh ngồi đây là năm mươi thế
giới bí ẩn. Tâm hồn các em như cầu vồng bảy sắc mà ta bất chợt nhìn thấy nhờ những
tia sáng mặt trời.
Phương vẫn ngồi
kia, góc cuối lớp, nét mặt không gì đổi khác, mà sao bây giờ tôi mới nhìn kỹ,
cái mũi cao thẳng trên khuôn mặt khôi ngô, đôi mắt luôn ngời lên ánh nhìn thông
minh và ngay thật. Bao giờ Phương cũng chỉnh tề với mái tóc gọn gàng, áo sơ mi
tém trong chiếc quần xanh ngay ngắn. Cái dáng cao và nước da trắng làm nên vẻ
thư sinh, khiến tôi không nhận ra em trong “vai” chàng trai đạp xích lô đêm
qua.
Tôi nhớ lại
những cuộc họp hội đồng giáo dục, nhiều ý kiến phản ánh tình hình học sinh. Để
tiếp tục cắp sách đến trường đối với các em không đơn giản chút nào. Có em phải
bán trứng luộc trên tàu, bán hành rong ngoài bờ biển, gánh nước thuê, đạp xích
lô… Tôi cho rằng đó là những thực tế không tránh khỏi của miền Nam sau giải phóng,
nhưng lại đinh ninh rằng lớp tôi không có những trường hợp như vậy, bởi vì ánh
mắt các em bình thản, vô tư lắm. Hoá ra lâu nay tôi toàn nhận xét học sinh theo
cảm tính. Tôi có biết đâu, đằng sau tiếng cười hồn nhiên của các em là một cuộc
sống đầy vất vả, lo toan.
Tôi không thể
làm ngơ trước một học trò như Phương được. Tôi phải tìm hiểu hoàn cảnh, tâm tư
của em, ý nghĩ đó thúc bách tôi mạnh mẽ. Giờ nghỉ, tôi gọi Phương ra hành lang.
- Hôm qua cô
có lỗi là không nhận ra em. Cám ơn em đã đưa cô về nhà, nhưng tại sao em lại có
vẻ tránh cô thế nhỉ?
- Thưa cô, Em
thực sự không muốn cô phải bận lòng nhiều vì chúng em…
- Sao em phải
đạp xích lô ban đêm?
- Dạ, em thuê
chiếc xích lô này. Chủ xe đi ban ngày, ban đêm họ nghỉ, cho thuê.
- Đêm nào
cũng vậy, còn thời gian nào mà nghỉ ngơi?
- Thường lệ cứ
7 giờ tối, em đi các phố đón khách, sau đó lên ga chờ khách xuống tàu. Em về
nhà lúc 2 giờ sáng ngủ đến 5 giờ dậy, đi học.
- Ngủ ít vậy
mà cô không thấy em ngủ gật?
- Dạ, em quen
rồi.
- Cô còn mắc
nợ em đấy, chủ nhật cô đến nhà thăm em được chứ?
Phương “dạ” một
tiếng rồi đi vào lớp, hoà trong đám học sinh đang gõ bàn hát ầm ĩ. Tôi nghĩ, em
không thể sống vô tư.
* * *
Phương ở
trong hẻm một khu phố lao động. Căn nhà chật chội, với những đồ vật sơ sài sắp
đặt không được hợp lý lắm. Tất cả muốn nói rằng cái “hậu phương” của em chẳng
có gì là vững chắc. Phương kéo ghế, mời tôi ngồi, cử chỉ chững chạc, lễ độ và tự
nhiên, không có sự khúm núm mà tôi thường gặp ở một số học sinh. Vừa rót nước
ra những chiếc ly thủy tinh, em vừa kể:
“Bố em là
lính, mất tích trước 1975. Mẹ em cũng mới mất cách đây hai năm. Bệnh hen suyễn
đã hành hạ bà suốt cuộc đời. Cho đến giờ em vẫn không thể nào quên hình ảnh mẹ
khô gầy, hố mắt trũng sâu, đêm đêm không ngủ được, mẹ phải dựa lưng vào vách,
há miệng ra thở những hơi thở khò khè, nặng nhọc. Căn bệnh hiểm nghèo, nên mọi
sự chữa chạy đều vô hiệu. Mỗi lần lên cơn khó thở, mẹ co rúm người, vật vã khổ
sở. Mẹ bảo chỉ mong chết. Em ước mình là bác sĩ để cứu mẹ. Mẹ mất, cuộc sống
chúng em càng khó khăn. Hai đứa em nhỏ cũng đang tuổi ăn học. Mấy lần em tính bỏ
học, đi làm kiếm tiền nuôi các em, nhưng xa lớp, xa các bạn, nhớ quá, không chịu
nổi. Mới lại em ước mơ trở thành bác sĩ nên phải cố gắng cô ạ…”
Bây giờ thì
tôi hiểu vì sao Phương học giỏi. Mỗi sự vươn lên để chiến thắng hoàn cảnh, đều
có một động lực bên trong. Từ đó, mỗi khi giảng bài, tôi thường nhìn vào mắt
em, ở đó niềm hy vọng đang cháy lên và tôi như được tiếp thêm sức mạnh.
* * *
Bẵng đi một
thời gian dài, dễ đến bảy, tám năm, tôi đã là bà giáo thâm niên trong nghề. Bao
nhiêu lớp học sinh đi qua cuộc đời, bao nhiêu gương mặt lưu lại trong tâm trí,
có những điều bị xoá nhoà, lãng quên, có những niềm vui, nỗi buồn khắc sâu
thành kỷ niệm. Tôi bắt đầu ngấm mệt, bắt đầu cảm nhận những bất cập và cả nỗi
buồn của nghề dạy học.
Một buổi
sáng, sau khi dạy xong bốn tiết văn, tôi bước ra khỏi lớp bỗng thấy đầu choáng
váng mắt nhoà đi, cổ họng đau cứng như có vật gì to lắm chẹn lại, ngực tức tựa
hồ ai đem đặt vào đó một tảng đá. Tôi ho rũ và khạc ra một cục máu đỏ bầm to bằng
đầu ngón tay. Không tin ở mắt mình, tôi nhìn kỹ lại, thì đúng là một cục máu.
Tôi bàng hoàng kinh sợ, nghĩ đó là dấu hiệu của bệnh “lao” và rùng mình nhớ đến
những đồng nghiệp của tôi đã chết vì lao phổi. Hai mươi năm cầm phấn, viết và
nói, tôi đã hít không biết bao nhiêu vi trùng. Những hạt bụi trắng, li ti mà những
người làm thơ, làm nhạc đã tha thiết ngợi ca. Tuổi trẻ vốn tin vào những gì đẹp
đẽ. Tôi cũng một thời thi vị hoá bụi phấn. Cứ để mặc cho phấn nhuộm trắng
bàn tay như một bông hoa huệ; Cứ để phấn bám đầy quần áo, rắc mịn màng lên tóc,
bay vào mũi, vào miệng, đó mới thật sự yêu nghề, xả thân vì đạo. Cứ gào lên mà
giảng, chẳng hề băn khoăn về hai lá phổi. Mấy lần thấy đau cuống họng, ngậm vài
viên ômai ngòn ngọt, dìu dịu lại nói rất say sưa. Có lúc mệt lử tự dặn mình đừng
hăng quá, phí sức, nói nhỏ lại, ít đi, chậm rãi hơn, nhưng gặp chỗ tâm đắc, hứng
lên, lại thao thao bất tuyệt. Chợt nhớ mình quá đà thì cổ họng đã sưng tấy lên
rồi.
Lần này không
thể xem thường, tôi phải đến bệnh viện. Phòng khám khá đông. Tôi lấy cuốn sách
“Giáo dục con người chân chính” của Xu-khôm-lin-xki ra đọc, chờ đến phiên mình.
- Chào cô ạ -
Một người mặc áo bơ - lu trắng, mang kính cận, nhìn tôi, cười:
- Thưa cô, cô
khám bệnh ạ, cô có nhận ra em không?
Trong giây
lát, những gương mặt học trò lần lượt hiện lên trong trí nhớ.
- A, Phương!
– Tôi khẽ reo lên - Thế ra bây giờ em không tránh cô như dạo trước nữa.
- Dạ. Sau khi
tốt nghiệp đại học Y khoa, em về làm việc bệnh viện này. Thưa cô, mời cô vào
phòng khám.
Hôm ấy, chính
Phương đã khám bệnh cho tôi, đôi mắt em nheo lại, đăm chiêu dõi theo từng nhịp
thở của tôi qua chiếc ống nghe. Sự bình tĩnh và thành thạo của Phương làm cho
tôi hoàn toàn tin cậy. Tôi đâu còn là cô giáo của em như ngày nào trang nghiêm
trên bục giảng. Tôi là bệnh nhân, còn em là thầy thuốc. Phương đưa tôi đến
phòng khám tai mũi họng, khoa X quang chụp phổi. Cử chỉ của Phương khẩn trương,
dứt khoát, tôi chỉ biết phục tùng như một cái máy. Sau đó, tôi đến ghế đá vườn
hoa giữa bệnh viện ngồi chờ kết quả xét nghiệm. Một chiếc lá xanh non khẽ chạm
vào tay tôi như một cử chỉ dịu dàng. Chẳng có cơn gió nào giật đi chiếc lá như
trong truyện của O. Henry. Vây quanh tôi là muôn nghìn con mắt lá, tràn trề hy
vọng. Ngồi ở vườn hoa tôi có thể nhìn toàn cảnh bệnh viện. Một chiếc cáng đưa một
bệnh nhân vừa chết xuống Nhà vĩnh biệt, những tiếng khóc dữ dội đi theo. Một
anh thanh niên ngồi ở ghế đá bên cạnh nở một nụ cười sung sướng khi có người đến
báo tin vợ anh vừa sinh con trai đầu lòng. Ở đây sự sống và cái chết diễn ra
trong khoảnh khắc. Nếu có khi nào ta đứng trong khoảnh khắc ấy sẽ cảm nhận sâu
sắc hơn hạnh phúc và khổ đau. Những người thầy thuốc là những chiến sĩ gan góc,
họ đang chiến đấu âm thầm, giành lại sự sống, niềm hạnh phúc cho con người, mà
sao bây giờ tôi mới thấm thía điều này. Phải chăng, chỉ lúc nào ta là bệnh nhân,
bị nỗi đau thể xác dày vò, ta mới suy nghĩ về công lao của người thầy thuốc?
Chị bạn tôi
là bác sĩ phàn nàn rằng “nghề Y khổ sở lắm. Mổ bụng người, cắt cả khúc ruột thừa,
mà tiền bồi dưỡng không bằng tiền trả cho anh thợ ngồi ở đầu đường vá cái ruột
xe”. Ồ, thế thì nghề dạy học của tôi có hơn gì? Tiền bồi dưỡng cho một giờ dạy
học ngoài tiêu chuẩn, gọi là giờ phụ trội, chỉ mua được một quả chanh. những
chuyện như thế thật vô cùng, làm sao có thể ghi hết bằng vài trang truyện? Có
điều là tôi, chị và tất cả mọi người vẫn sống, vẫn làm việc. Chúng ta là những
trí thức không thể lạc quan theo kiểu A-Q nhưng chắc chắn còn có một sức mạnh
vô hình nào quyết định sự sống của ta. Bát cơm, manh áo, chẳng đơn giản chút
nào, nó làm ta chóng mặt. Nhưng đáng sợ hơn khi trái tim ngủ yên, bộ óc ngủ
yên…
Có những lúc
tôi tưởng mình sắp ngã xuống giữa bục gíảng cao và vững chãi như cái điểm tựa
kia. Nhưng rồi lòng tự trọng đã buộc tôi phải đứng lên với một tư thế đàng
hoàng. Mỗi giờ dạy thất bại khiến tôi đau đớn hơn cả nỗi đau thể xác. Mỗi một
giờ dạy thành công thì niềm hạnh phúc ùa đến ngập tràn, như được hồi sinh. có
khác gì niềm vui của người thầy thuốc giành lại sự sống cho người bệnh từ tay
thần chết…
Có lẽ tôi sẽ
còn nghĩ ngợi miên man nếu Phương chưa trở lại. Em cầm trong tay tấm phim to bằng
trang giấy học sinh. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy một phần cơ thể của mình trên
hình ảnh, hồi hộp, lo âu. Chỉ một lời nói của Phương lúc này là quyết định phần
đời còn lại của tôi. Nếu tôi bị lao phổi có nghĩa là tôi phải vĩnh viễn rời xa
bục giảng.
Phương giơ tấm
phim lên, chỉ vào từng vùng sáng tối giải thích:
- Thưa cô, kết
quả xét nghiệm cho thấy tình trạng sức khỏe của cô hiện thời không đáng lo ngại.
Không có dấu hiệu bệnh nguy hiểm. Cô chỉ bị yếu phổi. Hiện tượng ho ra máu là
do viêm họng, xung huyết. Cô cần được nghỉ ngơi ít ngày và sử dụng thuốc theo
chỉ dẫn, nếu thấy trong người còn mệt cô trở lại đây.
Tôi run run
đón lấy tấm phim từ tay Phương, khẽ nói “cám ơn em” mà nỗi xúc động như muốn vỡ
òa.
Phương tiễn
tôi ra cổng bệnh viện. Quãng đường ngắn không cho phép cô trò nhắc nhiều về kỷ
niệm, nhưng hình ảnh cậu học trò mặc chiếc áo vá nhiều miếng to, đạp xích lô và
căn nhà chật chội trong hẻm hiển hiện trong tâm trí tôi. Sực nhớ điều gì tôi hỏi:
- Hai em của
Phương thế nào?
- Dạ, tốt
nghiệp đại học hết cả rồi cô ạ. Một đứa Bách khoa, một đứa kinh tế.
- Ôi trời !
Giỏi quá. Làm thế nào mà nuôi nhau ăn học?
- Dạ, cũng tự
lao động kiếm sống thôi ạ. Chật vật, gian nan lắm, nhưng rồi cũng qua.
- Em làm cô bất
ngờ quá đấy Phương ạ. Sự thành đạt của các em là bài học làm người.
- Em vẫn nhớ,
khi giảng bài, cô thường nói: Hạnh phúc chỉ có thể đạt được bằng nghị lực vươn
lên không ngừng.
Tôi tin
Phương thành thật, vì em nói điều đó sau những trải nghiệm của chính cuộc đời
mình
Chia tay
Phương, tôi ra khỏi bệnh viện trong trạng thái nhẹ nhõm như chưa từng đau ốm.
Phần vì Phương đã cho tôi biết tôi không bị lao phổi, nhưng lý do quan trọng
hơn khiến tôi trở nên khỏe khoắn là vì tôi vừa được chứng kiến “thành quả” của
mình. Người thầy giáo thường mang tâm sự buồn vì nghề dạy học vất vả, âm thầm
nhưng chẳng bao giờ được nhìn thấy “sản phẩm”. Thì đây, sản phẩm của nghề dạy học
là những con người, những thầy thuốc, kỹ sư, nghệ sĩ, nhà kinh tế, nhà lãnh đạo…
Tôi sung sướng
nhận ra, với tôi, không có chỗ đừng nào tốt đẹp hơn chỗ đứng trên bục giảng.
www.ninhhoatoday
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)