Thứ Năm, 31 tháng 5, 2012

Niềm tin tôn giáo : tốt hay xấu ?

BS Nguyễn Hoài Vân

Một băng skin head
Một điều dễ nhận thấy là người mang niềm tin tôn giáo thường là người tốt. Bạn sẽ cảm thấy thoải mái trên tàu điện hay trên xe buýt, ban đêm, với một nhóm linh mục hay chủng sinh hơn là với một nhóm skin head. Riêng tôi chưa bao giờ nghe nói các mục sư hay tỳ kheo tổ chức thành băng đảng đi ăn cướp ! Giới tu sĩ và những người mang niềm tin tôn giáo cũng tham gia vào các công việc thiện nguyện nhiều hơn người thường. Tuy nhiên, trong một số điều kiện kinh tế, xã hội, niềm tin tôn giáo có thể trở thành nguyên nhân của bạo lực, chiến tranh, thảm sát. Mặt khác, sự phát triển của khoa học vật chất cũng có thể tạo nên một sự rạn nứt trong xã hội vì những mâu thuẫn với niềm tin tôn giáo. Khoa học vật chất đã trở thành tiêu chuẩn của « sự thật » trong các xã hội hiện đại và phần nào đóng vai trò của một Niềm Tin mới. Thêm vào đó, một số người, vì những lý do dễ thông cảm, có thể dựa vào quan điểm duy vật để tấn công vài tôn giáo một cách mãnh liệt, dễ gây phản ứng mãnh liệt ngược lại, với những hậu quả tai hại cho xã hội. Bài này đưa ra vài suy nghĩ để hạn chế phần nào những tai hại ấy.

Quan điểm rộng rãi


Chúng ta cần tìm ra và hướng đến những quan điểm có thể chấp nhận được bởi người duy vật, duy tâm, tin Thượng Đế hay không tin Thượng Đế ... Thí dụ quan điểm một cái "thức" gắn liền với mỗi trình độ của vật chất, từ các hạt nguyên thủy cho đến não bộ con người (quan điểm này có thể đem lại một lý giải cho vấn nạn EPR của vật lý lượng tử chẳng hạn), đưa đến ý tưởng một cái « thức » chung cho toàn bộ vật chất, hay quan điểm Thượng Đế của Whitehead (một nhà toán học – xem : định nghĩa « khoa học » của Thượng Đế, trong :
http://nguyenhoaivan.com/default.asp?do=news_detail&id=388&kind=10 ), quan điểm Thượng Đế LÀ sự vật (Ấn Giáo, Spinoza ...), quan điểm « Thiên Chúa trong con người - con người là Thiên Chúa » (Ky Tô Giáo), quan điểm « chúng sinh là Phật - Phật là chúng sinh », v.v... Những quan điểm tương tự có thể vẽ lên một phạm trù trong đó người ta có thể « sinh hoạt » hài hòa với nhau dù mang những niềm tin khác biệt. Người Công Giáo và Phật Giáo sẽ dễ dàng nhận thấy những tương đồng cơ bản, bên cạnh vài khác biệt được giải thích bằng sự khác biệt khía cạnh nhận thức. Người duy vật cũng như người có niềm tin tôn giáo đều có thể chấp nhận được rằng con người là quý báu, vì mang bản tính Thiên Chúa, có Phật Tính, hay vì là trạng thái tiến hóa cao nhất của vật chất trong phạm vi hiện quan sát được, v.v... Cần biết là Stephen Hawking, nhà vật lý vũ trụ học được coi như duy vật và vô thần, cũng chính là một viện sĩ của Viện Hàn Lâm Khoa Học Vatican !

Thật ra, các nhà duy vật cực đoan nhất cũng phải công nhận là họ không biết có gì bên kia « bức tường Planck » (10-44 giây sau big bang). Mọi sự hiện hữu, kể cả thời gian, đều vô nghĩa trước thời điểm ấy. Điều này cho phép nhiều giả thuyết về sự chuyển biến có thể có, từ phi hữu sang hiện hữu, đàng sau bức tường này. Cần nhận định là trong giả thuyết vũ trụ tuần tự dãn nở rồi thu hẹp, big bang và big crunch không ngừng nối tiếp nhau, người ta chỉ không bàn đến sự chuyển biến từ phi hữu sang hiện hữu, nhưng không phủ nhận sự chuyển biến này ...


Cũng xin ghi nhận là khái niệm phi hữu tự nó phủ nhận chính nó. Thật vậy, chúng ta bắt buộc phải quan niệm những đặc tính nội tại của phi hữu đã cho phép nó biến thành hiện hữu vào một thời điểm nào đó. Khi quan niệm được cho phi hữu những đặc tính như thế, thì phi hữu không còn là phi hữu nữa. Nó trở thành một thực thể với những đặc tính rõ rệt, tức là một sự hiện hữu !




Clint Eastwood trong Gran Torino
Trong đời sống thường ngày

Trong đời sống thường ngày, thì Thượng Đế có thể được cảm nhận một cách rất đơn giản, thực tế. Khi chúng ta đứng trước một người khác, thì chúng ta liền cảm thấy có hai chọn lựa. Hoặc lập tức nhận ra mình có một trách nhiệm nào đó đối với người này, khiến chúng ta tử tế chào hỏi, nói năng thân thiện, lịch sự, tránh làm mích lòng, và nếu người ấy gặp phải vấn đề gì, thí dụ như ngất xỉu, lạc đường v.v… thì chúng ta có khuynh hướng muốn làm tất cả những gì có thể làm được để giúp đỡ người ta. Tổng hợp những thái độ ấy có thể được gọi là « Thiên Chúa » (theo Levinas – hay Clint Eastwood trong Gran Torino–xem:
http://nguyenhoaivan.com/default.asp?do=news_detail&id=243&kind=2 ). Tổng hợp những chọn lựa ngược lại là Ác Quỷ. Có thể gán cho tổng hợp những chọn lựa « tốt » một nguồn gốc siêu nhiên, nhưng cũng có thể coi đó là hậu quả của tiến trình tiến hóa, tức do một nguyên nhân « vật chất ». Các cộng đồng người nguyên thủy không phát triển các thái độ « tốt », phần nhiều đã bị tiêu diệt, vì thiếu vắng sự hợp tác, gây nên quá nhiều bạo lực, tàn phá ... Những cộng đồng nguyên thủy có nhiều hy vọng tồn tại nhất là những cộng đồng mang trong tâm não nhiều « thảo trình hợp tác », tức nhiều ý niệm về sự thiện. Các ý niệm hướng thiện này được di truyền đến chúng ta, như những thảo trình được cài đặt sẵn trong não bộ của mỗi người (1). Dù giải thích cách nào đi chăng nữa, sự cảm nhận tự nhiên về sự « thiện » cũng cho thấy sự hiện hữu của tính hướng thiện nơi mọi con người, một điều mà người duy vật, duy tâm, vô thần hay hữu thần đều dễ dàng chấp nhận. Thật vậy, điều quan trọng là cảm nhận cái tính thiện ấy. Giải thích hay đặt cho nó một tên gọi là điều phụ thuộc.

« Quản lý » mâu thuẫn


Vấn đề trong căn bản là thiết kế một xã hội với một hệ thống giá trị mà mọi thành viên đều chấp nhận được, để có thể chung sống hòa bình với nhau. Khi ấy các tranh cãi thuộc lãnh vực siêu hình sẽ trở thành những tranh luận lý thú, như giữa nhà vật lý không gian Trịnh Xuân Thuận và Lạt Ma Mathieu Ricard
(xem: http://nguyenhoaivan.com/default.asp?do=news_detail&id=499&kind=0).
Trong những thập niên gần đây, chúng ta đã chứng kiến nhiều cuộc đấu tranh giữa vài tôn giáo, thí dụ như giữa Hồi Giáo và Ky Tô Giáo
(2) tại Ai Cập, Irak, Soudan, Đông Timor ... Ấn với Hồi Giáo tại Ấn Độ, hay mâu thuẫn Công Giáo - Phật Giáo trong trường hợp Việt Nam, cũng như giữa vô thần và tôn giáo trong nhiều xã hội hiện đại.

Thật ra một số bất hòa vừa kể có thể được coi như những cuộc tranh đấu giữa các cộng đồng nhiều hơn là tranh cãi trên lãnh vực thuần túy tâm linh. Các cuộc đấu tranh này bắt nguồn từ những mâu thuẫn chính trị, những di sản lịch sử, những điều kiện địa dư, những chênh lệch về kinh tế, những bất công hay đàn áp trong hiện tại hay trong quá khứ ... Khi ấy, giải pháp hợp lý là tạo điều kiện thăng tiến đồng đều cho mọi cộng đồng, nâng đỡ những cộng đồng yếu kém về kinh tế, đồng thời tạo môi trường đối thoại giữa các cộng đồng với nhau, để mọi người có thể ý thức nguyên do của các tranh cãi, và thông cảm được phần nào với thái độ bất hòa của đối tượng. Nếu không tránh nổi đấu tranh thì cần đề ra những phương thức đấu tranh ôn hòa nhất, để tránh gây rối loạn, giảm thiểu bạo lực.


Trách nhiệm của người trí thức trong lãnh vực này rất lớn. Mục tiêu trong dài hạn là biến những mâu thuẫn đối kháng thành mâu thuẫn hợp tác ... Nếu có thể được !


30 tháng 1 năm 2011


(1) « Thảo trình hợp tác » đã được nhận ra trong loài vật, có lẽ từ các « xã hội » ong, kiến. Thậm chí người ta đã nhận thấy những con ong biết hy sinh mạng sống cho cộng đồng.

(2) Ky Tô Giáo bao gồm Công Giáo La Mã, các giáo hội Tin Lành cũng như Anh Giáo, Chính Thống Giáo và các giáo hội Ky Tô Đông Phương (như đạo Copte, Maronite, Syriaque v.v...)

Thứ Tư, 30 tháng 5, 2012

Y ĐỨC LÀ GÌ ? Y ĐỨC LÀ CHẨN ĐOÁN ĐÚNG VÀ ĐIỀU TRỊ THẬT TỐT CHO BỆNH NHÂN!

Tạp bút : bebutchi

Thứ tư, ngày 07 tháng mười hai năm 2011

P.215 - Ngoại B - NDGĐ 
Chú ấy là bệnh nhân, chú ấy xuất hiện trong phòng bệnh vào ngày thứ 2 đầu tuần....chú ấy được chẩn đoán : theo dõi lymphoma, mọi xét nghiệm đều OK, chỉ có Công Thức Máu có chỉ số bạch cầu cao và phết máu ngoại biên thấy nhiều tế bào lympho dị dạng.
Ngày thứ 3 của bệnh, mỗi lần mình bước chân vào phòng là chú ấy gọi và than " đau bụng quá ", nhìn chú ấy vật vã trên cái ghế, không chịu nằm trên giường, ánh mắt của chú - ánh mắt của một người đang kêu gọi sự cầu cứu từ một ai đó [- bác sĩ ]. Mình chỉ biết đứng nhìn chú ấy và nói " lát nữa cô điều dưỡng sẽ chích giảm đau cho chú " rồi  lặng lẽ bước đi và vờ như không nghe thấy lời than thở đó [ mình thật sự chẳng biết làm gì cho bn bớt đau, cái đau của bệnh lý ác tính thật đáng sợ].
Ngày thứ 3 của bệnh, CTM về, BC không cao như ngày đầu....

Ngày thứ 4 của bệnh , sáng mình ngủ quên, nên vào trễ, vào đến nơi thấy phòng bệnh xôn xao, thấy bóng dáng cô V. đang tìm vein của chú ấy đặt đường truyền tĩnh mạch - mình thấy có điều gì đó không ổn [ thường chỉ có bệnh nặng cô V. mới trực tiếp làm ]...chú ấy với cái vẻ mặt nhiễm trùng, thở mệt mỏi trên giường, không còn than đau ,nhưng qua ánh mắt, mình nghĩ chú ấy chắc là đang đau lắm, đau đến mức không nói than thở được nữa .... 15p sau ,chú được đưa xuống hồi sức ngoại.....6h sau chú bị suy gan, suy thận....và ...

Ngày chú đi, kết quả giải phẫu bệnh còn chưa gởi về khoa....

Chị gọi mình và nói, chị em mình đã bỏ sót điều gì ở bệnh nhân ....

Mình cũng không rõ nữa, ....nhưng nếu phải lý giải, mình nghĩ chú ấy bị shock nhiễm trùng, và vì sao nhiễm trùng, nhiễm từ đâu ? chú ấy bị lymphoma thì hệ miễn dịch suy giảm, được đưa vào bệnh viện là môi trường có khá nhiều vi khuẩn [ vi khuẩn bv toàn là vk độc lực cao ].

Nếu dùng kháng sinh dự phòng ngay từ đầu cho chú ấy ...liệu chú ấy có thể không rơi vào tình trạng như trên...không biết nữa, vì lúc ấy không có lý do gì để dùng kháng sinh....bạch cầu tăng cao trong bệnh lý ác tính về máu có thể là yếu tố gây nhiễu cho việc đánh giá tình trạng nhiễm trùng của bn khi lâm sàng không gợi ý ....rồi trong số lượng bạch cầu tăng đó, có bao nhiêu con tb miễn dịch thực sự làm việc có hiệu quả....

Mình không biết, không rõ, và nếu sau này có gặp lại một bn như chú ấy, liệu mình có để bn ấy ra đi nhanh như chú?

Cái hôm chú xảy ra chuyện, chị trêu mình " em tự vấn lương tâm đi " lời nói đùa bỗng dưng thành thật...

Điều làm mình ân hận, nếu ngày đó di huyết học, mình học tốt hơn 1 chút ,có lẽ....
Điều làm mình ân hận, là mình  không an ủi, hay trấn an chú ấy được 1 câu, khi chú ấy than thở với mình.....mình chỉ biết im lặng một cách bất lực và lặng lẽ nhìn chú ấy bằng ánh mắt vô hồn ...chú ấy ra đi....ánh mắt đó ám ảnh mình mãi....có lẽ nào lời thầy Tín nói là đúng " các bạn sinh viên bây giờ, xa rời bệnh nhân quá ".... mình tự hỏi mình, mình có mắc căn bệnh vô cảm không ?

Nói ra không phải để ngụy biện, vì thời gian đó, mình lu bu nhiều chuyện, tâm lý mình không ổn, nên mình bàng quan, và làm tiếp công việc của mình với 2 từ trách nhiệm ....
  chú ấy làm mình chợt thức tỉnh, có lẽ khi chọn cái ngành này, mình phải biết sự hy sinh không chỉ là thời gian, tuổi trẻ, sức khỏe, trí tuệ ...mà còn là phải biết gạt bỏ, dồn mọi cảm xúc của mình qua một bên, hay tất cả việc gì của mình cũng sẽ phải đặt sau sức khỏe của bệnh nhân, phải làm sao đó, cách nào đó, để mình luôn ổn....để chăm sóc thật tốt cho bệnh nhân...người ta dù tin hay không tin, nhưng cũng đã trao cả sức khỏe và tính mạng vào đôi tay mình....mình dù có xảy ra bất cứ chuyện gì trong cuộc sống, cũng không được phép hay có quyền hay lý giải này nọ cho sự thờ ơ....mà mình bắt buộc phải làm tốt một việc  là tận tâm với bệnh nhân .... cái nghề này, không chỉ đòi hỏi trách nhiệm mà còn cần lắm hai chữ NHẪN VÀ TÂM .
PS : nghĩa trang tâm hồn xuất hiện thêm 1 cái tên .

CUỘC SỐNG QUA ỐNG KÍNH : NGÕ TÔ TỊCH – Phố cổ Hà Nội

Trach Mai (face book)


Thời xưa tên đường này là "ngõ Tô Tịch" nối Hàng Quạt với Hàng Gai. Khi đó ngõ này nhỏ xíu chưa trải nhựa, chỉ có lơ thơ vài hiệu tiện đồ gỗ như chân đèn, chân nến và yo-yo (tôi nhớ vì trẻ con trong đó có tôi thường đến mua yo-yo ở đấy). Và điều này nói ra xấu hổ, cũng như mấy ngõ nhỏ của Hà Nội như Gia Ngư, hàng Mành thường còn dùng làm chỗ vệ sinh công công ! Những năm 80 thế kỷ trước Tô Tịch đột nhiên nổi tiếng vì một gánh bún mọc thường gọi là "bún mọc đồng cô" do một thanh niên có bộ tịch của một đệ tử của Cô Bơ hay Cô Bé gì đó đứng bán. Bún rất ngon chỉ bán từ 6h đến 8h giờ sáng rất đông người đi xe máy (lúc đó là sang) đến ăn. Ảnh của BS Thyanh cho thấy một bộ mặt rất khác của Ngõ Tô Tịch về cảnh cũng như người!

Thứ Hai, 28 tháng 5, 2012

SỰ SỐNG LÀ THIÊNG LIÊNG

Tác giả: NGUYỄN TƯỜNG BÁCH *

Shisha Pangma

Đời người không đo bằng bao nhiêu hơi thở,
mà bằng những nơi chốn và khoảnh khắc làm ta nín thở
(Khuyết danh)

Nepal chỉ là một nước nhỏ nằm giữa hai cường quốc khổng lồ và đông dân nhất thế giới, đó là Ấn Độ và Trung Quốc. Với một dân số khoảng 30 triệu người, Nepal đóng một vai trò rất phụ thuộc trong lịch sử phát triển của hai nền văn hóa tại hai nước lớn đó, vốn là hai nền văn hóa lâu đời nhất của loài người.
      Thực vậy, trong thời cổ đại, vì biên giới của Nepal cũng không hề được xác định rõ, miền đất này chịu ảnh hưởng rõ rệt của hai nước lớn nằm hai bên sườn Hy Mã Lạp Sơn, phía nam bên này là Ấn Độ, phía bắc bên kia là Tây Tạng.
Nghe qua, ta có thể tưởng Nepal là một nơi không có gì đáng chú ý. Thế nhưng, những ai đã đến thăm Nepal sẽ thấy đây là một miền đất vô cùng thú vị. Thực tế, Nepal chính là chiếc cầu bắc từ bình nguyên Ấn Độ đi cao nguyên Tây Tạng. Mà Ấn Độ và Tây Tạng đều là hai vùng có truyền thống sâu sắc của Phật giáo. Do đó, đến Nepal, nếu có chút tâm yên tĩnh, ta có thể cảm nhận nhiều điều vô cùng sâu lắng.
       Nepal không phải chỉ là một mảnh đất bằng phẳng nối liền hai nước mà là một chiếc cầu thang đi ngược từ dưới lên trên, từ bình nguyên Ấn Độ lên cao nguyên chừng 4.600m của Tây Tạng. Thủ đô Kathmandu của Nepal với độ cao 1.300m vốn chỉ là một thung lũng hiền hòa trong một quốc gia chứa khoảng tám đỉnh núi trên 8.000m và 240 đỉnh trên 6.000m. Do đó con đường đi từ Kathmandu, vượt biên giới tại núi Hy Mã, lên Tây Tạng là một con đường của núi non hùng vĩ, của thác nước trắng xóa và của băng vạn niên chói lọi. Đây hẳn là một trong những con đường đẹp nhất thế gian, đúng như các sách du lịch đều nhất trí thừa nhận. Con đường len lỏi giữa những thung lũng xanh rì mà hai bên là những ngọn núi nổi tiếng, một bên là ngọn Shisha Pangma với độ cao 8.014m, bên kia là những đỉnh bảy tám ngàn mét mà cách đó chừng 120km là ngọn Everest cao nhất thế giới. Trên độ cao chưa đến 3.000m, ta còn thấy rừng cây cổ thụ xanh mướt với những dòng thác như những dải lụa bạc thả vài trăm mét từ trên núi cao. Cao hơn nữa, rừng nhiệt đới biến mất, nhường chỗ cho thảo nguyên ngút ngàn với vô số bụi cây dại, thấp sát đất, nở đầy hoa. Thiên nhiên mở rộng vô biên, xa xa chỉ còn những đỉnh núi chói lọi tuyết trắng. Trên cao nguyên, bầu trời thường có một màu xanh thẫm như nhung. Lạ thay, bầu trời lại tối trong lúc mặt đất sáng lên một màu đồng của đá và ánh chiếu từ băng vạn niên nằm cao trên đỉnh.
          Đi qua những cảnh thiên nhiên kỳ diệu như thế, con người đô thị như chúng ta sẽ choáng ngợp, tâm sẽ chuyển động cực mạnh. Đến vùng đất vắng người này, con người sẽ chứng kiến sự kỳ diệu của sắc màu và cảnh quan lạ lùng của tạo hóa. Và chỉ cần một chút tâm nhạy cảm, con người sẽ đến với một nhận thức, một tri kiến khác lạ. Đó là thiên nhiên xem ra không phải chỉ có đất và đá, gió và tuyết, nước và lửa mà hình như là một sự xếp đặt có ý thức.
Từ sự nhận biết đó, trong cảnh hùng vĩ của núi sông, của băng tuyết, của mặt trời, của sự vận hành không ngừng trong thiên nhiên, người ta sớm cảm nhận thấy rằng thế giới này do một năng lượng nhất định tạo nên, dù không mấy ai biết năng lượng đó từ đâu đến. Một năng lượng vô tận nhưng vô hình đang vận hành, đó là điều mà con người khi đứng trên cao nguyên Tây Tạng, trên "mái nhà thế giới", sẽ cảm nhận một cách vô cùng rõ nét.
Kathmandu
         Đứng trước một cảnh quan vĩ đại như thế, con người vừa cảm thấy một lòng kính sợ trước chiều sâu thẳm và sinh động của vũ trụ, mặt khác vừa thấy chính mình cũng là một biểu hiện của sự sống, của năng lượng. Con người vừa thấy mình như là trung tâm, là tiêu điểm, là trục quy chiếu để ngắm nhìn thế giới, đồng thời lại thấy mình là một sự xuất hiện vô cùng nhỏ bé bên cạnh những dạng hình khổng lồ khác của năng lượng. Hai cảm nhận đó thường mâu thuẫn trong đời sống bình thường nhưng nơi đây lạ một điều là chúng không loại bỏ lẫn nhau nữa. Vì nơi đây dạng hình to nhỏ không còn đóng vai trò, dường như chỉ có một dòng năng lượng đang vận hành, nó "ứng" vào đâu thì nơi đó có sự hiện hữu.
Con người bình thường như chúng ta tuy cảm nhận được năng lượng này nhưng không giải thích được, lý trí không nắm bắt được nghịch lý của nó sinh ra. Năng lượng này hầu như vừa nằm bên trong, vừa bên ngoài; vừa tại nơi đây vừa cùng khắp; vừa tạo ra thân mình, vừa tạo ra cảnh vật bên ngoài; vừa vô hình vừa mang đủ thứ dạng hình. Tuy không định nghĩa và gọi tên được nó, nhưng điều chắc chắn là người ta thấy nó kỳ diệu. Chỉ cần nhìn sự cấu tạo và hoạt động của cơ thể chính mình, ta có thể thấy sự kỳ diệu đó. Nhìn vào sự vận hành của thiên thể trong vũ trụ hay trong những cấu trúc nhỏ nhất của vật chất, ta cũng thấy sự kỳ diệu đó.
Xưa nay rất nhiều người đã cảm thấy năng lượng đó. Họ cố tìm một danh tính cho nó. Có người gọi là "Tâm", là "Đạo", là "Tự Tính", là "Tính Không", là "Thượng Đế". Mỗi người cho nó một danh tính riêng mà nội dung và mức độ sâu xa hẳn cũng rất khác nhau. Nhiều người tìm cách "tiếp cận" hay "hòa nhập" với năng lượng đó và cũng vì sự khác biệt trên bước đường tầm cầu đó mà sinh ra rất nhiều môn phái.
Lại cũng có nhiều người từ chối những danh tính nói trên. Đối với một số người, những danh tính đó có tính chất mơ hồ, xa lìa khoa học, trực tiếp dẫn vào lĩnh vực tôn giáo thần bí. Thậm chí có một số người dị ứng hẳn với vài từ, thí dụ "Thượng Đế", cho rằng dùng từ này thì chấp nhận có một thể trạng nhất định đã sáng tạo nên thế giới và con người, điều mà khoa học ngày nay cũng như cả một số tôn giáo bác bỏ.
Hãy gác qua một bên những cuộc tranh luận vô tận xuất phát từ ngôn từ. Điều mà phần lớn chúng ta đều cảm thấy là có một năng lượng đang luân lưu vận hành. Hãy tạm gọi năng lượng đó là "Sự Sống" vì tất cả chúng ta đều thấy có "Sự Sống" trong thân mình. Trong thiên nhiên Sự Sống hẳn cũng hiện diện nên sinh vật và cây cối mới có thể tăng trưởng và sống còn. Trong vũ trụ hẳn cũng phải có một thứ năng lượng vĩ đại đang vận động. Liệu năng lượng đó cũng chính là Sự Sống trong thân chúng ta hay không thì đó là điều mà người bình thường như chúng ta không ai dám khẳng định.
Câu hỏi vừa nêu thực ra là một vấn đề trung tâm của ngành Bản thể học. Cuối cùng có lẽ người suy tư sẽ chạm trán với câu hỏi "Có nhiều Sự Sống hay chỉ một". "Một hay nhiều" là thắc mắc muôn thuở của người tầm cầu mà đầu óc lý luận không thể trả lời thỏa đáng.
Lục tìm lại trong quá khứ, chúng ta bắt gặp lời của một số thánh nhân về luận đề này: "Một nhưng nhiều". Muốn hiểu lời này ta có thể hình dung một thanh nam châm. Thanh nam châm có một tính chất, đó là hai cực từ tính của nó ở mỗi vết cắt. Thế nhưng khi ta cắt ở bất cứ điểm nào thì tại điểm đó đều sinh ra từ tính như vết cắt trước cả, chất lượng như nhau, không hơn không kém. Tương tự như thế, chỉ có một Sự Sống nhưng nó hiện hữu trong mỗi cá thể, kỳ diệu như nhau, "thánh không tăng, phàm không giảm". Loại tri kiến "một nhưng nhiều" là một loại nghịch lý đặc trưng mà ta sẽ gặp khi đi sâu vào lĩnh vực bí nhiệm của tâm linh. Trong lĩnh vực này con người có lẽ phải tạm quên khái niệm của không gian xa gần, to nhỏ thì mới có thể lĩnh hội được.
        Đối với nhận thức bình thường của chúng ta, Sự Sống xem ra là một cái gì riêng tư của mỗi người, nó là "của tôi và do tôi tạo ra". Nhận thức này là nguyên nhân tại sao con người thấy mình tách biệt với cái còn lại trên thế giới và nói cho cùng nó là nguồn gốc của mọi sự đau khổ của đời người. Nhận thức đó làm ta sẵn sàng làm điều ác với đồng loại và nó cũng là tác nhân sinh ra mọi nỗi đau khổ thất vọng và trầm cảm mà tại phương Đông cũng như Tây con người đều gặp phải.
Những ai có may mắn cảm nhận Sự Sống là "một nhưng nhiều" có lẽ sẽ đến với một nhận thức mới về con người và cả muôn thú hay thiên nhiên. Người đó tự thấy mình chỉ là một dạng xuất hiện của Sự Sống, cũng bình đẳng như Sự Sống xuất hiện nơi một người khác, một sinh vật khác và thậm chí nơi cả thực vật hay loài "vô sinh". Người đó sẽ thấy liên đới với mọi dạng của Sự Sống, thấy mình nằm trong mạng lưới vĩ đại của cái mà ta gọi là thế giới hiện tượng. Người đó đồng thời cũng thấy mình chứa đầy đủ tính chất và khả năng của Sự Sống nguyên thủy và có trách nhiệm với dạng hình của mình đang được ban phát, với xã hội của mình đang nằm xung quanh.
         Chúng ta có lẽ không ai hiểu thấu tất cả những điều nêu trên vì thực ra tri kiến đó quá sâu xa và siêu việt, vượt mọi tầm mức của con người bình thường. Nhưng những ai chỉ cần cảm nhận sơ lược điều này đã thấy mừng run về một điều mà các thánh nhân thời cổ đại đã nói tới. Sự Sống sẽ không những chỉ là "một nhưng nhiều" mà nó còn vô cùng thiêng liêng.
Đối với người đó thì gọi là Sự Sống là "Thượng Đế" hay bất cứ ngôn từ nào khác hay vắng bóng một danh tính đều được cả. Vì có lẽ người đó chỉ cần nhớ đến hơi thở hay tiếng đập của trái tim mình là đã "tiếp cận" với cái thiêng liêng. Đời sống đô thị và một xã hội đầy tranh chấp khó làm ta hiểu ngộ tính chất của Sự Sống. Cảnh quan thiên nhiên có khả năng đánh thức cảm nhận đó của chúng ta, nó đưa đường dẫn lối cho tri kiến lạ lùng và tuyệt diệu đó.
         Xuân sắp về, cỏ cây và thiên nhiên như sẵn sàng đón chào nhiều tâm hồn rộng mở. Con đường xuyên núi ở Nepal là một lựa chọn cho những ai đủ điều kiện, nhưng như đã nói, ở đâu cũng có Sự Sống, kể cả trong phố phường chật hẹp nhất.
*Chú thích: tác giả Nguyễn Tường Bách sinh năm 1948, sống và làm việc tại Đức (Bài đã được xuất bản.: 28/01/2012 06:00 GMT+7  trên  Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần)

Thứ Bảy, 26 tháng 5, 2012

NGƯỜI NGÀNH Y

by Anna Dao on Thursday, May 24, 2012 at 9:02pm ·(face book)

(Viết theo suy nghĩ của riêng tui, bà con có ghét ai đó cũng xin đừng ... ném đá :D.)
Những ngày này thấy báo chí trong nước, ngoài nước, các blog, kêu ca về ngành y quá. Nào là “thực trạng đau lòng của hệ thống bệnh viện tại VN, nào là bác sĩ quay phim sex rồi tố tụng nhau, nào là bác sĩ vô trách nhiệm gây chết sản phụ. Đó là đời thực. Còn những tác phẩm “văn hóa” như bộ phim “Chân trời trắng” đang chiếu đâu đó trên VTV thì bị dân ngành y  phê bình là quá đỗi “xúc phạm ngành y”.
Quả thật đôi lúc cứ nghĩ mà run, nếu một mai phải sa chân vào… bệnh viện, mà cuộc đời có ai không phải vào bệnh viện một đôi lần. Nếu chẳng may gặp phải những bác sĩ kém cả kiến thức và  y đức thì xem như tiêu tùng. Nhưng đọc những bài báo, những lời bình phẩm của các em bác sĩ tương lai trên facebook tôi lại thấy mừng. Mừng là vì sẽ có những thế hệ bác sĩ tương lai ra đời với đầy đủ tự tin, tự hào về ngành y và sống trọn với y đức của mình.
Nếu cuộc đời không dun rủi đi theo một con đường khác, chắc giờ đây tôi cũng là “người ngành y”. Không biết thật sự có bao nhiêu người theo ngành y vì hạnh nguyện cứu người, hay có một thời ngành y là ngành dễ kiếm tiền. Tôi theo ngành y vì nguyện vọng của cha mình. Khởi đầu sự học không lấy gì làm thích thú cho lắm, nhưng vài năm học và gắn bó với bệnh viện đã làm tôi yêu mến cái nghề không lấy gì nhàn nhã này. Đã mấy chục năm không cầm đến cái ống nghe hay một cái bơm tiêm nhưng thi thoảng trong giấc mơ tôi vẫn thấy mình ngủ gục trên chiếc ghế dài trong phòng trực và đầu gối lên chồng bệnh án. Mỗi lần nghe mùi cồn thoang thoảng đâu đó là giật mình gợi nhớ ký ức xưa, cái mùi thân quen mang lại cảm giác sạch sẽ mỗi khi dùng cục bông tẩm cồn để chà đôi bàn tay.
Để bắt đầu trở thành một người ngành y, một con người phải trải qua nhiều cảm xúc khác biệt trong đời mình. Cảm xúc đầu đời có thể là một sự ngại ngùng e thẹn, lần đầu tiên tiếp xúc với một mô hình con người trần trụi, từ đó góc nhìn về con người sẽ dần dần thay đổi, theo thời gian, theo kiến thức và sự ngại ngùng dần mất đi, chỉ còn lại là kiến thức, phải nạp vào, nạp vào, càng nhiều và mệt đuối. 
Thứ đến, có khi là một cảm giác buồn nôn, và nôn thật. Đó lần lần đầu tiên khi tiếp xúc với máu, với chất thải, với mùi của những vết thương đã nhiễm trùng. Ngày đầu thực hành bệnh viện của tôi là khoa ngoại chấn thương, nơi đó tôi đã nhìn thấy sự đau đớn của con người, đã nghe những tiếng rên khóc và không chịu được mùi tanh của vết thương tấy mủ. Bạn tôi nhiều đứa phải bỏ cơm trưa và có đứa tuyên bố bỏ học. Thế nhưng vài tuần sau là chúng tôi lại bắt đầu quen và thích nghi dần. Khi chúng tôi sang thực tập khoa sản thì có những đứa con trai tuyên bố sẽ không bao giờ lấy vợ, những đứa con gái thì nói chẳng bao giờ lấy chồng là bác sĩ sản khoa vì “mất cảm xúc quá”. Thế nhưng cảm giác háo hức, hồi hộp, nín thở (và đôi khi cùng rặn giúp cho những sản phụ) khi một đứa bé chào đời và oa lên tiếng khóc thì chúng tôi cảm thấy hạnh phúc và hãnh diện khi mình chọn ngành y này. Có đứa sau ca trực dài nhiều tiếng đồng hồ đói lả đã vồ lấy ổ bánh mì ăn và nhìn lại thấy khủyu tay mình còn vương chút máu sau một ca đỡ đẻ.
Cảm xúc của người ngành y nhiều khi là cảm giác hoang mang và đau đớn. Đó là khi một bệnh nhân mình chăm sóc đã qua đời. Điều đó không phải chỉ là một lần. Có lần tôi chăm sóc nhiều ngày cho một chị bệnh nhân bị lao màng bụng, đêm đó bụng chị chướng lên, đau đớn, chị cầm tay tôi và kêu đau đớn. Thông tiểu, thụt tháo cũng chỉ giúp nhẹ nhàng chút ít, tôi chỉ biết xoa giúp bụng qua loa cho chị. Đêm ấy chị qua đời, sáng hôm sau nhìn cái giường chị trống rỗng mà tôi cứ ân hận điều gì đó dù không phải là lỗi của mình. Cảm giác ấy trở lại một lần nữa nhiều năm sau, khi đã giã từ ngành y nhưng tôi trở lại bệnh viện để chăm sóc cho người dượng bị xơ gan. Có một người cháu ngành y túc trực bên giường bệnh, tôi biết gia đình dì tôi cũng an tâm. Thế nhưng… Không cứu được bệnh nhân, luôn là nỗi ân hận của người ngành y!
Vậy tại sao, ngày nay người ta lại oán trách, chê bai, lên án những người ngành y là thiếu y đức?
Mới đây, một người bạn tôi dù đã gần 50 tuổi, nhưng vẫn còn đi học chuyên tu ngành điều dưỡng. Khi tôi hỏi so sánh thời đi học bây giờ với ngày xưa thì như thế nào, bạn tôi nói, ngày xưa đi học, các bác sĩ giảng dạy đã giảng hết tất cả những kiến thức mình có được cho y sinh, nhưng bây giờ thì không. Thậm chí, có người nói thẳng ra rằng: “thôi không nói nữa, nói hết hôm sau lấy gì mà nói”. Bạn tôi nói: “Ngày xưa vào thời bao cấp, mỗi lần có bóng dáng áo trắng đến là bệnh nhân rất mừng, nên ngày đó tụi mình được thăm khám, thực tập và giỏi tay nghề, còn bây giờ, khi thấy đeo cái bảng xanh thực tập trên áo là họ không cho rờ. Thậm chí muốn hỏi triệu chứng còn phải o bế mua quà cho bệnh nhân nữa”.
Cũng phải thôi, bây giờ những người có tiền vào bệnh viện luôn đòi hỏi một chế độ chăm sóc và bác sĩ tay nghề cao; họ không dám để cho các y sinh có cơ hội thực tập, thì làm sao bọn trẻ có điều kiện học hành chu đáo, và thế là một loạt “người ngành y” ra trường mà không có kiến thức hay tay nghề vững chắc gì cả. Tôi nhớ có lần đưa chị tôi đi mổ ở bệnh viện Từ Dũ, lần đó trong dây truyền dịch của chị tôi có nhiều bọt khí. Ngày còn đi học, những trường hợp như thế này chúng tôi phải tỉ mẩn búng cho từng bọt khí chạy lên phía trên cao. Nhưng hôm ấy tôi nói với một cô y tá, cô này lập tức mở khóa cho dịch truyền chảy nhanh hơn để bọt khí nhanh chóng vào trong mạch máu của chị tôi cho khuất mắt. Ngay lúc ấy tôi hét lên và cô ta phải dừng tay, chị tôi thì gần sốc, lạnh run và choáng. Tôi không hiểu tại sao một bệnh viện lớn như thế lại có cô y tá này học hành như thế nào mà có suy nghĩ và hành động như vậy. Từ khi nói chuyện với bạn tôi, thì tôi đã hiểu, cô y tá đó thiếu kiến thức và thiếu sự thực hành lỗi không hoàn toàn ở cô ấy, mà có thể còn là do sự thiếu hợp tác của bệnh nhân trong quá trình đi học.
Trên danh sách bạn bè facebook của tôi, có những em là sinh viên ngành y. Theo từng câu status, từng cái note của các em tôi bắt gặp lại mình ngày xưa. Nhiều lúc tôi cũng lo lắng khi thấy các em lo lắng khi bài vở quá tải, thi cử khó khăn, trách nhiệm đối với bệnh nhân. Nhưng thấy các em lo lắng mà tôi mừng, vì cái sự lo lắng hôm nay của các em là y đức của các em mai sau.
Nếu ai có oán trách người ngành y thì trước hết hãy hiểu rằng người ngành y không phải là những con người vô cảm, dửng dưng, mà họ là người phải chịu đựng nhiều cảm xúc trong đời hơn tất cả những người ngoài ngành. Hãy giúp cho họ sức mạnh để cảm xúc đó trở thành thiêng liêng như nghề nghiệp họ đã chọn, xin đừng chê bai và phán xét bằng đôi mắt của người ngoài ngành.  
xem thêm : Y đức là gì?
                      Làm một công dân toàn cầu
                      Giá trị cuả sự chia sẻ