Thứ Hai, 7 tháng 5, 2012

NHÀ TIÊN TRI TRONG TRẠNG THÁI NGỦ

tiền kiếp
Mỗi năm, hàng chục ngàn người khắp nơi trên thế giới đâm ra quan tâm đến sự nghiệp của một con người bình thường. Ông là một con người trung bình ở hầu hết mọi khía cạnh: một người chồng dễ thương, một người cha của hai đứa con, một người làm vườn hăng say, một giáo viên tận tụy của trường giáo lý, và một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp. Tuy nhiên, trong suốt cuộc đời của mình, ông cũng biễu lộ một trong những tài năng tâm linh đáng chú ý nhất của mọi thời đại. Tên của ông là Edgar Cayce. Trong hơn bốn mươi năm đời sống trưởng thành, hàng ngày Cayce hầu như nằm dài trên một chiếc ghế trường kỷ, hai bàn tay gấp lại trên bụng và tự thả mình vào trạng thái ngủ. Rồi thì, chỉ cần cho biết tên và vị trí của một người nào đó ở bất cứ nơi nào trên thế giới, ông sẽ nói bằng một giọng nói bình thường và trả lời bất cứ câu hỏi nào về người đó. Những câu trả lời này, gọi là những bản giải đoán, được viết ra bởi một người viết tốc ký để lưu một bản trong hồ sơ và gửi một bản cho người cần thông tin. Ngày nay, trong hồ sơ lưu trữ tại thư viện của Hiệp hội Nghiên cứu và Khai sáng, Inc., tại Virginia Beach, Virginia, có hơn 14.000  bản giải đoán của Edgar Cayce. Những bản giải đoán này có sẵn cho công chúng đọc và được lưu trữ cùng với tất cả các bản báo cáo theo dõi nhận được từ những người yêu cầu giải đoán. Tài liệu này tiêu biểu cho bộ sưu tập lớn nhất của tư liệu về tâm linh từng được thu thập từ một nguồn duy nhất.
Edgar Cayce được sinh ra gần Hopkinsville, Kentucky, vào ngày 18 Tháng 3 năm 1877, là một trong năm người con, thuộc một đại gia đình có ông bà, chú bác, cô dì, và những người họ hàng sống quanh đó. Ông có một đam mê sâu sắc về Kinh Thánh, thậm chí hồi còn trẻ con đã có ước mơ trở thành một nhà truyền giáo qua y khoa. Lúc sáu hoặc bảy tuổi, ông kể lại với cha mẹ là đôi khi ông có thể nhìn thấy, thỉnh thoảng còn nói chuyện được với những người thân vừa mới qua đời. Hầu hết, gia đình ông cho những trải nghiệm này là những tưởng tượng cường điệu của ông và ít quan tâm đến chúng. Ông tìm thấy sự thoải mái trong việc đọc Kinh Thánh và quyết định đọc suốt từ đầu đến cuối, mỗi năm đọc lại một lần cho đến suốt đời. Ở tuổi 13, ông khẳng định có một cảnh xuất thần đã ảnh hưởng ông đến suốt đời: một người đàn bà xinh đẹp đã hiện ra trước mặt ông và ông nói với bà rằng, ông không có mong muốn gì hơn là giúp đỡ người khác – nhất là trẻ em lúc đau yếu. Ngay sau trải nghiệm ấy, Edgar biểu lộ tài năng đang lúc ngủ trên những sách giáo khoa của mình vừa đọc lại, đúng từng chữ một, bất kể tài liệu dài bao nhiêu – cho dù nó có chứa các ngôn từ vượt quá trình độ văn hoá còn hạn chế của mình. 
Edgar Cayce

 Khi 16 tuổi, ông cùng với gia đình dọn nhà đến Hopkinsville và ông kiếm được một  việc làm - đầu tiên, tại một công ty vải sợi và sau đó tại một hiệu sách. Trong thời gian làm việc tại hiệu sách trên Main Street, ông đã gặp gỡ và đem lòng yêu một phụ nữ trẻ tên là Gertrude Evans. Họ đi đến hứa hôn với nhau trước sinh nhật thứ hai mươi của ông 4 ngày, và quyết định sẽ kết hôn khi ông có đủ khả năng tài chính nuôi sống gia đình. Ông dời nhà đến Louisville để tìm một công việc có thu nhập khá hơn và trở thành một người bán hàng lưu động. Ông bán văn phòng phẩm và bảo hiểm vào đầu thế kỷ ấy, và ông tin rằng công việc này sẽ không bền lâu trước khi ông có đủ khả năng tài chính để kết hôn. Tuy nhiên, đến 23 tuổi, sau khi uống một loại thuốc giảm đau, ông phát bệnh viêm thanh quản nặng. Ban đầu,ông thực sự không quan tâm lắm nhưng tình trạng bệnh vẫn còn dai dẳng. Các bác sĩ được mời đến và sau đó là các chuyên gia y khoa, nhưng Edgar vẫn không thể nói chuyện được mà chỉ thì thào. Cứ thế hết nhiều ngày rồi đến nhiều tuần, ông buộc phải từ bỏ công việc người bán hàng và tìm một công việc gì đó không cần phải nói nhiều. Ông tìm được một công việc làm phù hợp ở Hopkinsville là phụ tá nhiếp ảnh gia.Vào lúc này, những màn trình diễn thuật thôi miên trên sân khấu đang trải qua cuộc hồi sinh trên đất nước này. Có một người biểu diễn, tự gọi mình là "Hart – Người tiếu lâm", mang tiết mục hài kịch và thuật thôi miên đến nhà hát kịch Hopkinsville. Edgar Cayce tình cờ tham dự chương trình và tình nguyện làm một trong những đối tượng phô diễn cho Hart. Thật không may, hoá ra Edgar là một trong những người không thể bị thôi miên, nhưng ông chủ ý tự thả mình vào giấc ngủ - y hệt như ông đã làm khi ngủ trên những sách giáo khoa của mình. Trong trạng thái tự thả mình vào giấc ngủ, Cayce có thể trả lời các câu hỏi với giọng nói bình thường của ông trong trạng thái xuất thần. Tuy nhiên, ông đã không thực hiện theo cách gợi ý như người đã bị thôi miên, và chứng viêm thanh quản của ông quay trở lại khi ông được Hart đánh thức. Các báo chí địa phương trở nên hào hứng về sự việc này. Thế nhưng, cha mẹ của ông cảm thấy lo lắng. Kể từ cuộc thử nghiệm đầu tiên với Hart, con trai của họ đã bị giảm cân. Xem chừng việc tự thả mình vào giấc ngủ đã làm héo mòn thân xác. Người ta đề nghị làm cuộc thôi miên một lần nữa, và tìm một người đàn ông địa phương để đưa ra những gợi ý. Al Layne đã tự mình học hỏi. Chẳng những anh có kinh nghiệm về việc thôi miên, mà còn quen thuộc với thuật nắn xương. Kịch bản mà anh thử làm hoàn toàn đơn giản: như trước đây, Edgar tự thả mình vào giấc ngủ, nhưng lần này chỉ khác là thay vì gợi ý chuyển sang giọng nói như của người thanh niên, Layne yêu cầu Cayce giải thích ông bị bệnh ra sao và làm thế nào để chữa khỏi. Trong khi đang ngủ trên ghế trường kỷ, Edgar mô tả nguyên nhân như một điều kiện tâm lý tạo ra hiệu quả sinh lý. Căn bệnh đó có thể được chữa khỏi bằng cách gợi ý cho ông - trong trạng thái vô thức - đó là làm gia tăng tuần hoàn máu ở các vùng bị bệnh. Layne nói gợi ý, rồi anh và gia đình của Cayce theo dõi trong nỗi kinh ngạc khi phần trên của ngực trên và cổ họng của Edgar chuyển sang màu đỏ tươi và sờ vào da thấy ấm lên. Sau khi gợi ý làm cho máu huyết lưu thông trở lại bình thường, và Cayce được đánh thức, ông có thể nói chuyện với giọng bình thường trở lại. Chứng viêm thanh quản này hầu như chỉ kéo dài đúng một năm.
Ngày 31 tháng 3 năm 1901 là mốc đánh dấu lần đầu tiên chính Edgar Cayce đưa ra lời giải đoán. Ông không còn ý định thả mình vào trạng thái ngủ nữa, nhưng Al Layne đã chứng kiến một cái gì đó lạ thường và nảy sinh những ý tưởng. Trong nhiều năm qua, Layne đã bị khổ sở bởi chứng đau dạ dày mà các bác sĩ không thể nào chữa khỏi. Anh thuyết phục Edgar thử đưa ra lời giải đoán về chứng đau dạ dày ấy. Hết sức miễn cưỡng, cuối cùng Edgar đồng ý. Đang lúc ngủ trên ghế trường kỷ, Cayce đã nói với giọng bình thường và đề nghị dùng thuốc Đông y, các thức ăn, và bài tập thể dục để chữa trị. Sau khi thực hiện được một tuần theo lời đề nghị của Cayce trong lúc ngủ, Layne cảm thấy khỏe hơn nhiều đến nỗi anh càng phấn khởi hơn về khả năng của Edgar. Anh thuyết phục Cayce rằng tài năng ấy là không được bỏ qua, và anh mạnh dạn khuyến khích ông hãy thử làm những trắc nghiệm khác. Edgar Cayce cảm thấy như thể ông bị đặt vào một tình thế may rủi bấp bênh. Về mặt nào đó, việc giải đoán này rất lạ lẫm đối với ông. Ông chẳng biết gì về ngành y hoặc chẩn đoán bệnh. Tuy nhiên, Layne lý giải rằng ông phải có nghĩa vụ về đạo đức nếu tài năng của ông giúp ích cho mọi người. Cuối cùng, sau khi thành tâm cầu nguyện, bàn bạc với gia đình, và tham khảo Kinh Thánh, ông đồng ý tiếp tục các thử nghiệm với điều kiện là trong trạng thái ngủ, nếu ông đưa ra đề nghị điều gì gây tổn hại chút nào cho người khác, ông sẽ dừng ngay việc giải đoán. Một trong những giải đoán đầu tiên là dành cho một cháu bé 5 tuổi tên là Aime Dietrich, bị bệnh nặng đã ba năm nay. Lúc 2 tuổi, sau khi mắc phải một trận cúm - mà sau này các bác sĩ gọi là bệnh cúm ác tính - trí não cô đã không phát triển hơn của một đứa bé hai tuổi. Kể từ đó, cơ thể nhỏ bé của cô bị hành hạ bởi những cơn co giật. Tâm trí của cô trống rỗng, và mặc dù đã được các bác sĩ và chuyên gia tư vấn, bệnh tình của cô tiếp tục xấu đi. Layne gợi dẫn việc giải đoán. Cayce trong trạng thái ngủ cho biết Aime đã nhuốm bệnh vài ngày trước khi phát bệnh cúm ác tính - cô đã bị té ngã và chấn thương cột sống khi từ trên xe ngựa bước xuống. Các vi khuẩn cúm đã bám vào cột sống của cô từ nơi vết thương, và chứng co giật đã phát tác. Mẹ cô bé đã xác nhận có xảy ra tai nạn đó. Vẫn trong trạng thái đang ngủ, Edgar Cayce đưa ra cách chỉnh hình theo thuật nắn xương do Layne thực hiện. Layne đã thực hiện chỉnh hình trên cột sống cô bé và nghe lời giải đoán để kiểm tra. Cayce vừa ngủ vừa nói với Layne rằng anh đã thực hiện việc chỉnh hình không chính xác và ông đưa ra thêm những hướng dẫn! Sau nhiều nỗ lực, Layne đã có thể thực hiện được các đề nghị theo các yêu cầu được mô tả chính xác của vị nhiếp ảnh gia đang ngủ. Vài ngày sau đó, Aime nhận ra con búp bê cô đã chơi lúc còn nhỏ và gọi đúng tên của nó. Vài tuần sau, cô còn nhận ra được những đồ vật khác và cuối cùng là chứng co giật dứt hẳn. Không đầy 3 tháng, Aime đã trở lại là một cô bé 5 tuổi khoẻ mạnh bình thường. Người ta sớm phát hiện ra rằng Cayce chỉ cần tên và vị trí của một người là có thể đưa ra lời giải đoán, chẩn đoán bệnh tình của người đó, và đưa ra chế độ điều trị. Cayce tiếp tục đưa ra những giải đoán miễn phí, với sự gợi dẫn của Layne.
Năm 1903, sau hơn 6 năm hứa hôn, Gertrude Evans và Edgar Cayce cuối cùng đã kết hôn.
Mặc dù không thoải mái lắm với công việc giải đoán, cuộc sống của ông cũng hạnh phúc . Ông đã có một người vợ yêu thương, một ngôi nhà, một lớp giáo lý chủ nhật tại nhà thờ địa phương, và một công việc tốt. Một năm sau, ông thành lập cơ sở kinh doanh nhiếp ảnh riêng và có thể mở một công ty nhiếp ảnh. Trong khi đó, một bác sĩ tên là Wesley Ketchum vừa tự chẩn đoán mình bị đau ruột thừa, và ông muốn có một cuộc giải đoán xem Cayce sẽ có thể tìm ra bệnh này không. Tuy nhiên, trong khi ngủ, Cayce đã đưa ra kết quả chẩn đoán khác hẳn và đưa ra một cách điều trị đơn giản. Để chế nhạo người đàn ông trẻ này, bác sĩ Ketchum đã đi đến một bác sĩ khác để có một ý kiến thứ ba, và rồi phát hiện ra rằng chẩn đoán của Cayce quả là chính xác. Wesley Ketchum sử dụng tài năng tâm linh của Cayce cho hơn 100 ca bệnh khó nhất của ông. Điển hình là  trường hợp một người giám sát công trình xây dựng giàu có, bị gãy chân và xương bánh chè trầm trọng trong một tai nạn. Một số bác sĩ tỉnh lỵ cho rằng họ có thể chữa được chân gãy, nhưng vì xương bánh chè đã bị tổn hại đến mức hết cứu chữa, anh ta sẽ không bao giờ đi lại được nữa. Không hài lòng với báo cáo y khoa của họ, Dalton đến tham vấn ý kiến bác sĩ Ketchum. Cayce đã đưa ra giải đoán và đề nghị những gì được coi là một cách điều trị cực kỳ cấp tiến vào năm 1905: Ketchum được cài một số cây đinh vào xương bánh chè để cố định vị trí trong khi chữa chân gãy. Chưa ai nghe nói đến phương pháp chữa trị này vào thời đó, nhưng bác sĩ Ketchum, tin tưởng vào Cayce, đã thực hiện. Vài tháng sau khi cuộc phẫu thuật được thực hiện, Dalton đã đứng lên được lên và đi bộ loanh quanh như thể tai nạn chưa hề xảy ra. Vì những yêu cầu giải đoán ngày càng tăng, Cayce thành lập cơ sở kinh doanh với cha và bác sĩ Ketchum, rồi bắt đầu cung ứng việc giải đoán hàng ngày. Ông nổi tiếng là một nhà chẩn bệnh tâm linh. Đồng thời, ông cũng mở công ty nhiếp ảnh riêng và dành phần lớn thời gian mỗi ngày tại "Công ty nhiếp ảnh nghệ thuật Cayce" để chụp ảnh trước khi giải quyết các yêu cầu về giải đoán. Vào năm 1907, Cayce và Gertrude đã có con trai đầu lòng, tên là Hugh Lynn. Năm 1911, Gertrude sinh đứa con trai thứ hai, được họ đặt tên là Milton Porter. Sau khi sinh chẳng bao lâu, đứa bé phát bệnh ho gà và sau đó còn bị viêm kết tràng. Một số bác sĩ được tham vấn, nhưng bệnh tình đứa bé ngày càng tồi tệ hơn. Cayce không bao giờ thực sự nghĩ là nhờ đến những lời giải đoán cho đến khi các bác sĩ từ bỏ mọi hy vọng. Như một phương sách cuối cùng, Cayce đã đưa ra giải đoán cho con trai thứ hai của mình. Những lời giải đoán đưa ra một cách tuyệt vọng, và thằng bé đã chết trước khi được hai tháng tuổi. Cayce và vợ lâm vào trạng thái trầm cảm. Ông tự trách mình đã không làm việc giải đoán sớm hơn – biết đâu nó có thể hữu ích; bây giờ ông không biết làm gì nữa. Gertrude trở nên bạc nhược sau cái chết của đứa bé, và bác sĩ cho là bà đã mắc phải bệnh viêm màng phổi. Những tháng trôi qua, bệnh trạng ấy vẫn dai dẵng, và bà không có dấu hiệu thuyên giảm. Sự thực, bà ngày càng bệnh nặng và cuối cùng nằm liệt giường. Khoảng cuối mùa hè, bác sĩ của Gertrude đã thay đổi cách chẩn đoán. Ông kéo Cayce sang một bên và nói với ông rằng Gertrude đã bị bệnh lao phổi và sắp chết. Mọi người đều tưởng bà sẽ chết vào khoảng cuối năm nay, ngoại trừ chồng bà quyết định đưa ra lời giải đoán. Trong trạng thái ngủ, Edgar Cayce đề nghị cách chữa trị bằng một hỗn hợp thuốc theo toa pha với rượu brandy táo cho vào trong thùng gỗ sồi đun bằng than. Gertrude cần phải hít khói xông lên để làm thông chỗ sung huyết. Mặc dù các bác sĩ quả quyết rằng hỗn hợp thuốc ấy chắc là vô ích, bác sĩ Ketchum vẫn kê toa thuốc. Chỉ 2 ngày sau khi áp dụng lối điều trị này, Gertrude cảm thấy thuyên giảm và hết sốt. Vào tháng 11, ngay cả bác sĩ của bà cũng quả quyết là bà sắp khỏi bệnh. Vào tháng 1 năm 1912, Gertrude Cayce đã gần như hoàn toàn hồi phục. Cùng năm này, trường hợp Edgar Cayce đã được trường Đại học Harvard nghiên cứu, và có thể chứng minh được sự chính đáng và tính hiệu quả của các lời giải đoán. Ông đã dọn nhà tới Selma, Alabama, mở một công ty nhiếp ảnh và bắt đầu một cuộc sống ẩn dật. Tuy nhiên, một ngày nọ, con trai ông, Hugh Lynn, bị phỏng nặng đôi mắt khi nghịch bột đèn chớp trong công ty nhiếp ảnh của cha mình. Các bác sĩ địa phương đề nghị bỏ một con mắt do tổn thương nghiêm trọng quá. Người con trai nhờ cha mình thực hiện cuộc giải đoán. Trong trạng thái ngủ, Cayce đoan chắc rằng thị lực chưa mất. Ông đề nghị một hợp chất bổ sung được cho vào dung dịch thuốc được bác sĩ kê toa và bảo rằng đôi mắt của Hugh Lynn phải được giữ băng kín trong hai tuần. Không cần thực hiện cuộc phẫu thuật mắt nào cả, và khi tháo băng, cậu bé lại nhìn thấy được. Báo chí địa phương đăng tải câu chuyện ấy và Edgar Cayce lại càng nổi tiếng. Khi những yêu cầu giải đoán được tiếp tục, Edgar Cayce đã phải đối mặt một vấn đề khác. Mặc dù việc giải đoán đem lại hữu ích, nhưng nhiều người thấy khó mà nhờ bác sĩ của họ thực hiện phương pháp trị liệu được đề nghị bởi một người đàn ông trong trạng thái ngủ mà họ chưa bao giờ gặp - một người đàn ông, mà trong nhiều trường hợp, chưa bao giờ thấy cái người mà ông đang chẩn đoán. Cayce nghĩ đến giải pháp là cần có một bệnh viện riêng, với đội ngũ bác sĩ, y tá, và chuyên gia liệu pháp lành nghề, là những người sẽ thực hiện các phương pháp điều trị theo đề nghị của lời giải đoán. 

The Association for Research & Enlightenment Museum

Lúc ấy, ông thuê một thư ký, Gladys Davis, để ghi lại nội dung bài giải đoán trong khi bà Gertrude đặt câu hỏi cho chồng đang trong trạng thái ngủ. Cho đến năm 1923, hầu hết các bài giải đoán của Cayce chỉ giới hạn trong phạm vi y học. Tuy nhiên, năm đó một chủ nhà in giàu có từ Dayton, nhờ hỏi Cayce trong trạng thái ngủ cho một bài giải đoán tử vi, nên đã có được bài giải đoán chính xác cho 2 cháu gái. Ở cuối bài giải đoán [5717-1] Cayce đã phán một câu lạ lùng: "Kiếp trước, ông đã từng là một nhà sư". Lời tuyên bố ấy mở cửa cho một lãnh vực nghiên cứu hoàn toàn mới - khả năng tái sinh. Ngay lập tức, Cayce đã phải đối mặt với một tình thế khó xử mới. Chắc chắn rằng thông tin đó là hữu ích và chính xác khi liên hệ tới sức khỏe, nhưng các lời giải đoán mặc nhiên liên quan đến sự tái sinh ấy hình như quá xa lạ đối với Ki Tô giáo chính thống của ông. Ông cầu nguyện về điều đó, đã làm nhiều cuộc tìm kiếm linh hồn, và có được một vài bài giải đoán. Edgar Cayce thấy rằng khái niệm về luân hồi không phải là không tương thích với bất kỳ tôn giáo nào. Ngay sau đó, việc giải đoán về “kiếp người” được khai triển. Bài giải đoán đề cập đến  kiếp trước cũng như kiếp sau  của một con người. Do sự hữu ích của lời giải đoán ấy, một số mạnh thường quân tìm cách biến giấc mơ mở bệnh viện của Cayce thành hiện thực. Một nhóm muốn đặt cơ sở tại Chicago, một nhóm khác mong đặt ở Dayton. Tuy nhiên, nhiều lần, các bài giải đoán đề nghị bệnh viện được đặt ngay hoặc gần Virginia Beach, Virginia. Tuy nhiên, nhiều lần lập đi lập lại, bài giải đoán tư vấn là bệnh viện nên đặt tại hay gần Virginia Beach, Virginia. Cuối cùng, một thương gia New York đã đồng ý tài trợ dự án đó, và năm 1925, gia đình Cayce cùng với Gladys Davis dọn nhà tới Virginia Beach. Mãi đến năm 1931, bệnh viện mới hoạt động ổn định. Tuy nhiên, giữa thời kỳ suy thoái, sự ủng hộ tài chính không còn nữa. Trong thời kỳ hỗn loạn này, Cayce hợp nhất Hội Nghiên cứu với Công ty Khai  sáng, nhằm phục vụ như một bộ phận nghiên cứu để điều tra những thông tin được đưa ra bởi Cayce trong bài giải đoán. Tổ chức này thì tồn tại, nhưng bệnh viện thì không. Nhiều năm qua, Cayce càng có nhiều khả năng tâm linh hơn trong trạng thái thức cũng như ngủ. Có lần, ông chạy ra khỏi phòng trong nỗi sầu đau vì ông biết rằng ba người đàn ông trẻ tuổi sẽ ra trận không trở về. Ông cũng đã phát triển khả năng để xem hào quang (hay gọi là phách), đó là vùng ánh sáng bao quanh mọi sinh vật. Qua những hào quang này Cayce có thể cảm nhận được tâm trạng của người ta cũng như toàn bộ thể trạng của họ. Trong suốt thời kỳ cao điểm của Chiến tranh Thế giới II, hàng bao tải thư tín được gởi cho Cayce với yêu cầu giải đoán ngày càng tăng. Bất chấp việc cảnh báo là không được thực hiện quá 2 bài giải đoán trong một ngày, Cayce bắt đầu nổ lực thực hiện 8 cuộc giải đoán mỗi ngày để theo kịp yêu cầu. Sổ hẹn yêu cầu giải đoán của Gladys Davis phải sắp lịch hẹn trước 2 năm! Vào mùa xuân năm 1944, sức khoẻ Edgar bắt đầu suy yếu. Bài giải đoán dành cho bản thân ông khuyên ông nghỉ ngơi, nhưng ông cảm thấy có trách nhiệm nặng nề đối với những yêu cầu ông giúp đỡ. Cuối cùng, ông bị suy sụp vì hoàn toàn kiệt sức, rồi cũng như đã giải đoán lần đầu tiên cho bản thân mình, ông đã làm cuộc giải đoán cuối cùng cho chính mình - vào tháng Chín năm 1944. Bài giải đoán bảo ông phải nghỉ ngơi. Khi Gertrude hỏi "bao lâu?" Câu trả lời là "cho đến khi ông khoẻ mạnh hoặc là chết". Thời gian ngắn sau đó, ông bị đột quỵ và bị liệt một phần cơ thể. Ông mất vào ngày 03-01- 1945. Lúc đó, không ai thực sự biết Gertrude bị bệnh ra sao, nhưng trong vòng 3 tháng, vào ngày Chủ Nhật Phục Sinh, bà cũng qua đời. Gladys Davis một mình đứng ra tiếp quản tổ chức để bảo vệ các thông tin mà bà đã khổ nhọc để viết ra, cho đến khi con trai của Edgar trở về từ chiến tranh. Cuối cùng, Hugh Lynn đứng ra gánh vác cái tổ chức mà cha mình đã khởi sự, và có thể khuyến khích sự quan tâm đến các thông tin cha mình để lại cho hậu thế trên toàn thế giới. Khi Hugh Lynn mất vào năm 1982, Hiệp hội đã tăng từ vài trăm thành viên lên hàng chục ngàn. Gladys thành lập chỉ mục các bài giải đoán vào năm 1971, hơn một phần tư thế kỷ sau khi Cayce đã chết! Sau khi lập chỉ mục, bà phát hiện ra rằng các bài giải đoán bao gồm hơn 10.000 đề tài khác nhau - gần như mọi vấn đề có thể hình dung được đã được yêu cầu giải đoán. Bà  tiếp tục làm việc như thư ký cho Hội đồng Quản trị của các tổ chức Cayce cho đến khi qua đời ở tuổi 81, vào năm 1986.
Bùi Công Trường  chuyển ngữ  (The sleeping prophet - Kevin Todeschi )
Để tìm hiểu thêm về Edgar Cayce và A.R.E. - Association for Research-and-Enlightenment- xem  www.edgarcayce.org

Không có nhận xét nào: