Thứ Tư, 21 tháng 12, 2011

Hội chứng “Tim Ngày Lễ”

Bác sĩ Nguyễn văn Đích

Rung nhĩ đáp ứng thất nhanh

Chung quanh ngày lễ ta thường thấy gia tăng tai nạn xe cộ, ngộ độc thức ăn và bệnh tim mạch.
Trong phạm vi bài này, ta đề cập đến các triệu chứng tim mạch liên hệ đến lễ hội gọi là hội chứng “tim ngày lễ” (Holiday Heart Syndrome).

Bệnh nhân thường là những người trẻ tuổi, vốn khỏe mạnh và không có tiền căn tim mạch. Trong hoặc sau ngày lễ, họ có triệu chứng hồi hộp, tim đập nhanh hoặc thất nhịp, cảm thấy khó thở, chóng mặt, xây xẩm và khó chịu ở ngực. 
Họ không nghiện nhưng đã uống nhiều rượu trong cuối tuần hoặc trong ngày lễ.
Thăm khám có thể có mùi rượu trong hơi thở. Bệnh nhân có thể bị kích động, lo lắng, mạch nhanh, không đều, áp huyết ở giới hạn cao. Nghe tim thấy loạn nhịp, có thể có đợt rung nhĩ ngắn, không có dấu hiệu của bệnh về cấu trúc cơ tim hoặc van tim.
Cần phân biệt với các bệnh nhân nghiện rượu, rung nhĩ, cuồng nhĩ, cường giáp, cơn nhịp nhanh trên thất kịch phát, thuyên tắc động mạch phổi, cũng cần lưu ý đến tình trạng do uống quá nhiều cà phê, dùng ephedrine, phenylpropanolamine thái quá hoặc các thuốc kích thích khác như cocaine….
Các xét nghiệm cận lâm sàng gồm điện tâm đồ, đo chất điện giải trong máu nhất là potassium, TSH, siêu âm tim, và đối với những người có nguy cơ bệnh tim mạch cần chụp hình tưới máu cơ tim.
Trong phần lớn các trường hợp, triệu chứng tự hết trong 24 giờ, bệnh nhân trở lại bình thường, nhịp xoang đều, không cần điều trị. Trong trường hợp bệnh nhân lớn tuổi có thể phải làm nghiệm pháp gắng sức để truy tìm trường hợp rối loạn nhịp tim do gắng sức.
Những người trẻ, không có bệnh tim thực thể có thể về nghỉ ở nhà khi rối lọan nhịp đã ổn định. Những người có bệnh về cấu trúc cơ tim, cần theo dõi nhịp tim (monitoring). 
Những người ngộ độc rượu bị lọan nhịp mà nhịp thất quá nhanh có thể phải dùng các thuốc ức chế nút nhĩ thất như thuốc chẹn bêta, verpamil, diltiazem, digoxin.

Thuốc chẹn bêta có lợi hơn vì tác dụng nhanh và ly giải giao cảm. Đối với những bệnh nhân bị lọan nhịp nhĩ có đáp ứng thất nhanh như rung nhĩ hoặc cuồng nhĩ gây triệu chứng, cần phải kiểm soát nhịp thất. Có thể dùng metoprolol 5 mg tiêm tĩnh mạch (TM) mỗi 5 phút, không quá 3 liều, có thể tiếp tục bằng 25 mg uống mỗi 6 giờ.

Thuốc chẹn calci (nondihydropyridine) ức chế sự di chuyển của ion calci qua màng tế bào, do đó giảm tính tự động (automaticity) và tốc độ dẫn truyền của hệ thống dẫn truyền trong cơ tim. 
Verapamil giảm ngọai tâm thu thất giảm nguy cơ nhanh nhịp thất hay rung thất: 5-10 mg TM chậm trong 2 phút, có thể cho thêm một liều thứ hai sau 15-30 phút nếu không có đáp ứng.  Diltiazem là thuốc thích hợp nhất đối với nhịp nhanh trên thất có triệu chứng vì tác dụng nhanh và ngắn hạn, có thể ngừng khi lọan nhịp chấm dứt. Tiêm tĩnh mạch 0.25 mg/kg trong 2 phút, có thể lập lại với liều 0.35 mg/kg nếu chưa có đáp ứng có thể tiếp tục bằng truyền tĩnh mạch với liều 5-15 mg/giờ.

Digoxin tăng sức co bóp cơ tim, tăng hoạt tính của nút xoang động mạch cảnh, ít còn được dùng vì tác dụng chậm. Liều trung bình: 0.75-1.25 mg/ngày, uống 0.25 mg mỗi 4 giờ, 4 lần trong ngày.
Các bệnh nhân bị lọan nhịp mà tình trạng huyết động học không ổn định (hạ huyết áp), cần phải sốc điện.
Bệnh nhân cần được nhắc nhở không nên uống rượu thái quá.

Không có nhận xét nào: